Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Lưỡng quốc Tướng quân Nguyễn Sơn (1-10-1908 - 1-10-2008)

Nguyễn Sơn - Vị tướng của tình hữu nghị Việt – Trung

Sáng nay, kỷ niệm 100 năm ngày sinh Lưỡng quốc Tướng quân Nguyễn Sơn
Nguyễn Sơn - Vị tướng của tình hữu nghị Việt – Trung

Tôi có may mắn được chiến đấu dưới quyền chỉ huy của tướng Nguyễn Sơn thời kháng chiến chống Pháp khi ông là Tư lệnh kiêm Chính ủy Chiến khu thứ Tư (nay là Quân khu 4) và tôi là cán bộ tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 57. Tôi cũng nhiều lần được trò chuyện với ông ở Trung Quốc năm 1950 và 1955 khi tôi sang Trung Quốc học tập và công tác.

Nguyễn Sơn - Vị tướng của tình hữu nghị Việt – Trung ảnh 1

1. Ông tên thật là Vũ Nguyên Bác, sinh ngày 1-10-1908 tại phố Yên Ninh, Hà Nội, nguyên quán ở làng Kiêu Kỵ thuộc huyện Gia Lâm. Lên 7 tuổi ông vào học Trường Đỗ Hữu Vỵ, sau đó học Trường Sư phạm nội trú Hà Nội. Chịu ảnh hưởng của gia đình và phong trào yêu nước, năm 1925 ông giác ngộ và được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội do Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Sau đó ông bí mật sang Quảng Châu, Trung Quốc.

Sau khi tham gia lớp huấn luyện chính trị đặc biệt do Nguyễn Ái Quốc tổ chức, ông được cử đi học Trường Quân sự Hoàng Phố do Tôn Trung Sơn sáng lập với sự giúp đỡ của cố vấn Liên Xô.

Tháng 8-1927, Vũ Nguyên Bác gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 12 năm đó, cuộc khởi nghĩa Quảng Châu bùng nổ. Cùng với các đồng chí Trung Quốc và Việt Nam, ông tham gia cuộc khởi nghĩa Quảng Châu. Cuộc khởi nghĩa thất bại và bị dìm trong biển máu.

Tạm lánh sang Thái Lan, hoạt động trong tổ chức cách mạng của Việt kiều. Giữa năm 1928 Vũ
Nguyên Bác trở lại Trung Quốc. Ông qua Hồng Công rồi vào khu căn cứ Đông Giang tham gia chiến tranh du kích, làm chính trị viên đại đội. Từ đó ông lấy tên là Hồng Thủy.

Nguyễn Sơn - Vị tướng của tình hữu nghị Việt – Trung ảnh 2
Tướng Nguyễn Sơn cùng vợ Hằng Huân và 4 con (ảnh chụp năm 1956)

Mùa thu năm 1934, Chủ tịch Mao Trạch Động chủ trương tiến hành cuộc Vạn lý trường chinh dài hơn 12.000km từ Giang Tây lên Thiểm Bắc. Hành quân trong đội hình Phương diện quân thứ nhất, Hồng Thủy là một trong bốn người nước ngoài và là người Việt Nam duy nhất tham gia cuộc Vạn lý trường chinh gian khổ ấy.

Năm 1937, phát xít Nhật gây chiến tranh xâm lược Trung Quốc. Đảng Cộng sản chủ trương chấm dứt nội chiến, hợp tác với Quốc dân Đảng để đoàn kết toàn dân chống Nhật. Hồng quân ở Hoa Bắc đổi tên là Bát Lộ quân, ở Hoa Đông lấy tên là Tân Tứ quân. Thời kỳ đầu chiến tranh chống Nhật, Hồng Thủy được Bộ Tổng chỉ huy Bát Lộ quân cử đi xây dựng căn cứ kháng Nhật ở vùng Đông Bắc tỉnh Sơn Tây, lần lượt giữ các chức vụ: Bí thư Khu ủy 4 huyện Ngũ Đại, Phó Bí thư Đảng ủy khu Đông Bắc Sơn Tây; Tổng phụ trách lớp huấn luyện cán bộ ở Vương Gia Trang. Sau đó, ông phụ trách báo “Kháng địch” của quân khu Tấn Ký Sát, rồi làm giáo viên chính trị Trường Quân chính kháng Nhật. Từ năm 1939 đến 1942, ông về Phân hiệu hai Đại học Quân chính kháng Nhật ở Hà Bắc.

2. Tháng 8-1945, khi Hồng Thủy đang học tại Trường Đảng Trung ương ở Diên An thì cuộc kháng chiến chống Nhật của Trung Quốc kết thúc, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam bùng nổ. Được tin Cách mạng Tháng Tám thành công và nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời do cụ Hồ Chí Minh làm chủ tịch, ông xin được về ngay tổ quốc. Lúc đó ông chưa biết Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc tức Lý Thụy – người thầy cách mạng của mình hai mươi năm về trước. Từ Diên An, ông đáp máy bay đi Trùng Khánh rồi tìm đường về Hà Nội. Để giữ bí mật, ông đổi tên là Nguyễn Sơn từ đấy.

Nguyễn Sơn trở về nước khi thực dân Pháp đã gây chiến tranh xâm lược miền Nam, Hồ Chủ tịch và Thường vụ Trung ương Đảng bổ nhiệm ông làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam. Cùng với các đồng chí lãnh đạo và quân dân miền Nam, ông đã góp phần tích cực ngăn chặn bước tiến của quân xâm lược Pháp thời kỳ đầu kháng chiến. Tháng 5-1946, trên vùng tự do Liên khu 5, ông thành lập và trực tiếp làm hiệu trưởng Trường Sĩ quan lục quân Quảng Ngãi để đào tạo cán bộ cho các chiến trường.

Tháng 7-1947, ông được bổ nhiệm làm Khu truởng kiêm Chính ủy chiến khu thứ 4 gồm sáu tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình, Trị, Thiên, chức vụ Đảng là Phó Bí thư khu ủy. Mùa xuân năm 1948, trong đợt phong quân hàm đầu tiên của Quân đội Nhân dân Viêt Nam, ông được phong thiếu tướng.

Cuối năm 1949, ông rời Khu 4 ra Việt Bắc rồi sang Bắc Kinh vào giữa năm 1950 khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vừa ra đời. Sau một thời gian làm việc ở cơ quan Mặt trận thống nhất Trung ương và học tập ở Học viện Quân sự Nam Kinh, năm 1954 ông về Bộ Tổng giám huấn luyện Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, giữ chức Phó Cục trưởng Cục Điều lệnh, Tổng Biên tập tạp chí huấn luyện chiến đấu. Ngoài tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, ông học thêm tiếng Nga và có khả năng dịch tài liệu tiếng Nga sang tiếng Trung Quốc.

Năm 1955, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc lần đầu tiên tổ chức phong quân hàm và khen thưởng tổng kết, ông được phong hàm thiếu tướng và được tăng thưởng Huân chương Bát nhất, Huân chương Độc lập và Huân chương Giải phóng, đều là hạng nhất. Đây là sự ghi nhận của Đảng, Chính phủ Trung Quốc đối với những đóng góp xuất sắc của ông – người nước ngoài duy nhất đã đi suốt quá trình xây dựng quân đội cách mạng Trung Quốc từ những ngày gian khổ hiểm nguy cho đến ngày thắng lợi.

3. Năm 1956, các bác sĩ Trung Quốc phát hiện ông bị khối u ác tính, đã phẫu thuật nhưng không kết quả. Được Đảng Trung Quốc thông báo, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng ta có ý định đưa ông sang Liên Xô với hy vọng chữa khỏi bệnh cho ông. Tuy nhiên, sau khi xem bệnh án gửi sang, các giáo sư Liên Xô cho biết bệnh ông không có khả năng chữa khỏi. Trung ương Đảng nhất trí để ông và gia đình về Việt Nam.

Cuối tháng 9-1956, tôi được giao nhiệm vụ lên Bằng Tường đón ông. Đến nơi tôi được biết Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã tổ chức một chuyến tàu đặc biệt đưa ông từ Bắc Kinh về Bằng Tường. Tại đây, đại diện Đảng, chính quyền và quân đội Trung Quốc đã lưu luyến tiễn ông qua biên giới. Dạo ấy, sau 9 năm kháng chiến, đường sắt Đồng Đăng – Hà Nội chưa khôi phục xong, chúng tôi dùng ô tô đưa ông và gia đình về Hà Nội. Ông rất cảm động khi thấy có người quen lên đón và dặn tôi, khi vượt qua biên giới, tìm một chỗ thuận tiện cho đoàn xe dừng lại, để ông “tận hưởng phút giây hạnh phúc khi đặt chân lên mảnh đất quê hương”.

Tôi đã thực hiện những điều giản dị mà ông ao ước. Nhưng tiếc là về nước được hơn một tháng, ông đã ra đi trong niềm tiếc thương của nhân dân và quân đội hai nước Việt – Trung, khi vốn kiến thức và kinh nghiệm đang độ chín muồi, khi đất nước và quân đội đang rất cần những vị tướng như ông.

HOÀNG MINH PHƯƠNG

 Sáng nay, kỷ niệm 100 năm ngày sinh Lưỡng quốc Tướng quân Nguyễn Sơn

(SGGP 12G).- Sáng nay, 1-10, tại Hà Nội, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam và gia tộc họ Vũ đã phối hợp tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Thiếu tướng Nguyễn Sơn (1-10-1908 - 1-10-2008). Thiếu tướng Nguyễn Sơn có tên khai sinh là Vũ Nguyên Bác, người gốc Gia Lâm, Hà Nội.

Ông là một trong những vị được phong cấp tướng đầu tiên của quân đội Việt Nam sau khi Cách mạng tháng Tám thành công và từng đảm nhận chức Tư lệnh Quân khu IV. Ngoài ra, ông cũng được phong quân hàm thiếu tướng trong biên chế Giải phóng quân Trung Quốc với tên gọi Hồng Thủy. Chính vì vậy, mới có cụm từ “Lưỡng quốc Tướng quân Nguyễn Sơn”. Tướng Nguyễn Sơn mất ngày 21-10-1956, do bị bệnh nặng, sau khi từ Trung Quốc về.

Tại lễ kỷ niệm, ngoài chương trình nghệ thuật, đã có nhiều tham luận của các nhà khoa học Việt Nam như GS Đinh Xuân Lâm, GS Phạm Xanh, GS Vũ Tuấn... và đại diện Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam với nội dung làm rõ thân thế, sự nghiệp và những đóng góp to lớn của Thiếu tướng Nguyễn Sơn đối với Cách mạng Việt Nam cũng như Trung Quốc, nhất là việc xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa Đảng và quân đội 2 nước.


TRẦN BÌNH

Tin cùng chuyên mục