7 tháng đầu năm, đã có 4 sản phẩm, nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu đạt trên 2 tỷ USD (cà phê, gạo, tôm, sản phẩm gỗ).
Nhiều mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu cao hơn so với cùng kỳ, như: xuất khẩu cà phê đạt trên 2,6 tỷ USD (tăng 46,2%); cao su đạt trên 1,6 tỷ USD (tăng 7%); gạo trên 2 tỷ USD (tăng 9%); hồ tiêu khoảng 661 triệu USD (tăng 11,7%); sắn và sản phẩm sắn đạt 904 triệu USD (tăng 32,1%); cá tra đạt khoảng 1,6 tỷ USD (tăng 83,6%); tôm đạt trên 2,7 tỷ USD (tăng 26,2%); gỗ và sản phẩm gỗ đạt trên 9,7 tỷ USD (tăng 1,2%); mây, tre, cói thảm đạt 538 triệu USD (tăng 3,1%); phân bón các loại đạt 848 triệu USD (gấp 3,2 lần).
Những mặt hàng giảm gồm: nhóm hàng rau quả đạt trên 1,9 tỷ USD (giảm 16,1%), hạt điều ước đạt gần 1,8 tỷ USD (giảm 10,4%), sản phẩm chăn nuôi đạt 225,6 triệu USD (giảm 11,6%). Dù giá trị xuất khẩu nhóm gỗ và sản phẩm gỗ tăng 1,2% nhưng giá trị xuất khẩu của sản phẩm gỗ lại giảm 6,9% với giá trị trên 6,9 tỷ USD.
Về thị trường xuất khẩu, trong 7 tháng, khu vực châu Á (chiếm 42,4% thị phần), châu Mỹ (29,3%), châu Âu (11,9%), châu Đại Dương (1,7%) và châu Phi (1,6%).
Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất, đạt gần 8,7 tỷ USD (chiếm 26,8% thị phần); đứng thứ 2 là thị trường Trung Quốc trên 5,7 tỷ USD (chiếm 17,8% thị phần); thứ 3 là thị trường Nhật Bản với giá trị đạt trên 2,3 tỷ USD (chiếm 7,2%); thứ 4 là thị trường Hàn Quốc với giá trị đạt trên 1,5 tỷ USD (chiếm 4,7%).