Dự thi ký văn học chân dung “Người đương thời”

“Ấn tín” mới của “vua cầu treo”

“Ấn tín” mới của “vua cầu treo”

Như bao người sinh ra và lớn lên ở nông thôn, Sáu Quý không có điều kiện để theo đuổi chuyện học hành cho đến nơi đến chốn, anh học hết cấp 1 trường làng đã phải theo cha, mẹ kiếm sống trên cánh đồng ở vùng quê nghèo Châu Phú, An Giang.

“Ấn tín” trong bài viết này là một chiếc cầu treo bắc ngang sông Long Xuyên, nối liền hai xã Phú Hòa và Vĩnh Thành của hai huyện Thoại Sơn và Châu Thành, thuộc tỉnh An Giang. Cầu mang tên Phú Vĩnh, do “Vua cầu treo” Phạm Ngọc Quý thiết kế, thi công.

Người ta thường gọi Phạm Ngọc Quý (Sáu Quý) là “Vua cầu treo”, với tôi, tôi gọi vui Sáu Quý là “dân anh chị” vì anh hay mặc bộ đồ bà ba, để tóc búi sau ót, nhìn phía trước thấy râu ria phải gọi là “anh”, nhưng nhìn từ phía sau dễ tưởng lầm là “chị”. Phạm Ngọc Quý và vợ là Võ Thị Mười cùng sinh năm Quý Mẹo (1963), cả hai có bốn người con trai và đang sống ở ấp Hưng Thạnh, xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú, An Giang.

“Ấn tín” mới của “vua cầu treo” ảnh 1

“Vua cầu treo” Phạm Ngọc Quý.

An Giang là tỉnh có rất nhiều sông, ngòi, kinh, rạch, đan xen chằng chịt. Hằng năm kinh rạch phải được nạo vét, phục vụ cho giao thông thủy và dẫn nước tưới tiêu. Những chiếc xáng cạp rất to, khi quơ cần cẩu, quăng gàu múc đất gặp cầu rất vướng, đi lại không được; có lúc phải “nhổ” cầu đi, nạo vét kinh xong mới “trồng” cầu lại, rất dễ hư hao, lãng phí…

Sáu Quý thấy con em chòm xóm phải đẩy xuồng qua kinh 13 để đến Trường tiểu học B Bình Phú, Châu Phú (An Giang), những lúc tan học về, không có xuồng, nhiều em không chờ được người thân phải cởi quần áo, cuộn tập vở, cầm trong tay giơ cao khỏi mặt nước để bơi qua kinh mà Sáu Quý nghĩ đến chuyện cất cầu. Thế nhưng, vùng này người ta thường hay cất cầu tre, những khi gặp mưa, thân tre trơn láng dễ làm trẻ em té xuống sông rất nguy hiểm. Cất cầu ván qua sông rộng phải cần nhiều nhịp, nhiều trụ cầu cắm dưới lòng kinh và cất thấp sẽ cản trở giao thông thủy…

Xem truyền hình, thấy có những cây cầu dây văng treo qua những con suối phục vụ bộ đội hành quân, vận chuyển lương thực đạn dược… Sáu Quý nghĩ, mình có thể làm được…

Thế là cây cầu treo đầu tiên có bề mặt rộng 1,2m, dài gần 30m, bắc ngang con kinh 13, ngay Trường tiểu học B, xã Bình Phú được xây dựng, giúp các em học sinh và nhân dân hai bên bờ qua lại dễ dàng, an toàn.

Ngày ấy, tôi đến tìm hiểu, trông chiếc cầu treo ngồ ngộ bởi treo dưới hai sợi dây cáp căng ngang kinh là sườn cầu ván được đóng bằng những mảnh ván gáo, ván bạch đàn liên kết với nhau, đủ sức nâng đỡ cho những bước chân các em học sinh tung tăng, cho thầy cô giáo dắt xe đạp qua lại dễ dàng không muộn giờ lên lớp… Nhưng, thú thật khi bước lên cầu, tôi cảm nhận được nhịp chân của mình đã làm cầu rung rinh khẽ, tôi không dám tin đây là một mô hình cầu treo có thể nhân rộng, phổ biến khắp vùng.

Tiếp đến là cây cầu nằm trên con đường đất ven kinh 13, bắc qua con kinh 10, đoạn nối liền hai xã Bình Phú và Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú (An Giang). Từ khi đào con kinh 13, con đường này hình thành nhưng để đi từ Bình Phú đến Đào Hữu Cảnh, tới con kinh 10 người ta phải qua đò, nhất là đi xe gắn máy thì thật bất tiện. Với 42 triệu đồng của bà con trong vùng gom góp được, Sáu Quý đã làm được cây cầu treo rộng 2m, dài trên 40m với hai mố cầu được đổ bê tông, trụ cầu chắc chắn xóc dưới mép nước đủ sức cho xe suốt lúa, xe máy xay xát gạo có trọng lượng trên một tấn qua lại dễ dàng. Bà con trong vùng vui miệng phong cho Sáu Quý là “kỹ sư…”.

Tin lành đồn xa, Sáu Quý được nhiều nơi mời đến làm cầu. Hầu hết các huyện trên địa bàn tỉnh An Giang đều có cầu treo do Sáu Quý thiết kế, thi công. Các huyện Châu Thành, Thoại Sơn, Tân Châu, Châu Phú … Sáu Quý trực tiếp thiết kế thi công mỗi nơi trên chục cây cầu; còn các huyện thị khác, huyện nào cũng có cầu treo Sáu Quý cất…

Cũng không ít nhà khoa học, kỹ thuật, những kỹ sư cầu đường nghe chuyện Sáu Quý cất cầu đã không tiếc lời biếm nhẽ… Các nhà quản lý bộ phận lo chuyện cầu đường (phòng giao thông) ở một số nơi đã gạt cái tên Sáu Quý ra khỏi những kế hoạch xây cầu, vì họ không đọc được những “bản vẽ” của Sáu Quý.

Sáu Quý không được đào tạo trường lớp chuyên môn xây dựng làm sao có thể trình bày ý tưởng của mình bằng những bản vẽ kỹ thuật với những hình cắt ngang, cắt dọc, những ký hiệu qui ước của bộ môn sức bền vật liệu và những thông số kỹ thuật khi vẽ thiết kế nên khó lòng được các nhà khoa học kỹ thuật chấp nhận. Cũng chính vì vậy mà ở một số nơi muốn mời anh đến thiết kế thi công những cây cầu treo đáp ứng nhu cầu bức thiết của địa phương, phù hợp với nguồn kinh phí hạn hẹp, bị rào cản của những quy định pháp lý khi thanh quyết toán, nghiệm thu công trình… nên không thực hiện được. Họ phải chờ cho cấp trên đồng ý cấp kinh phí theo đúng quy trình và buộc phải do cơ quan chuyên ngành đến khảo sát, thiết kế, thi công…

Còn dân An Giang quê tôi hiểu được những gì mà Sáu Quý chưa thể hiện được trong bản vẽ nhưng thể hiện trong tâm hồn, đó là tấm lòng hết mình vì mọi người của anh nên bà con tin tưởng gom góp tiền, mua vật tư nhờ Sáu Quý cất cầu treo cho thôn xóm mình đi lại dễ dàng.

Mô hình cầu treo của Sáu Quý đã giải quyết được khó khăn cho bà con nhiều địa phương. Những chiếc cầu treo do anh thiết kế, thi công thường có trụ cầu sát gần bờ, độ thông thuyền rộng, độ tĩnh không lớn, không cản trở ghe tàu qua lại, kể cả những chiếc xáng cạp lui tới nạo vét kinh rạch. Mặt khác, giá thành đầu tư cất cầu treo thường chỉ bằng khoảng 2/3 giá xây dựng một cây cầu bê tông kích cỡ và tải trọng tương tự, bởi vì nó không phải tốn các khoản chi phí như khảo sát, tư vấn thiết kế, thẩm định, giám sát thi công, nghiệm thu…

Hầu hết, cầu treo do Sáu Quý thực hiện kinh phí do nhân dân đóng góp, nhân dân phân công nhau mua vật tư, giám sát thi công và nghiệm thu một cách công khai và dân chủ nên chẳng lãng phí. Những ngày thi công xây dựng cầu, không khí ở đây thật náo nhiệt. Nhóm thợ Sáu Quý chịu trách nhiệm chính về kỹ thuật, đo đạc, thiết kế, thi công. Bên cạnh đó còn rất đông nhân dân trong địa phương ai có tiền góp tiền mua vật tư, người góp gạo, góp thức ăn như bầu bí, cá thịt… Người không tiền thì góp công khuân vác, nấu nướng… Chẳng nghe ai than thở mỏi mệt mà chỉ nghe tiếng cười đùa, vui vẻ… Gặp lúc mưa dông mất điện hay khó khăn phát sinh đột xuất, mọi người cùng bàn bạc tìm cách khắc phục.

Đến khi cầu hoàn thành, mọi người đều được nghe báo cáo công khai tài chính, công khai và ghi nhận đóng góp của từng người, hầu như ai cũng thấy hạnh phúc, thấy mãn nguyện vì cây cầu vừa xây xong có công sức của mình trong đó…

Trong suốt những năm đầu làm cầu treo, Sáu Quý thường không nhận tiền công, xem như đó là việc đóng góp công sức của mình cho làng xóm, cho quê hương. Anh không nhận tiền công chẳng sao, nhưng bao nhiêu công nhân theo anh còn có vợ con, họ cũng cần phải sống…

Cứ làm “thí công” như Sáu Quý dần dần một số người theo không nổi, bỏ anh. Mặt khác, anh cũng cần phải có những trang thiết bị kỹ thuật cần thiết để nâng cao chất lượng khi thi công. Chính vì vậy, Sáu Quý phải nhận tiền thù lao khi thiết kế thi công cầu treo. Tùy tình hình kinh phí địa phương và hoàn cảnh đặc biệt của khu vực cần xây cầu, mà Sáu Quý thu một khoản tiền công tương ứng với mức từ 10% đến 20% tổng kinh phí vật tư bỏ ra xây dựng, để anh trả lương công nhân và mua sắm thiết bị…

Hiện nay, ở Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều nhóm làm cầu treo ngấm ngầm thi đua với Sáu Quý nhưng chưa nhóm nào thực hiện được số lượng cầu, kích cỡ và chất lượng vượt qua Sáu Quý.

Sáu Quý trực tiếp tổ chức thực hiện những chiếc cầu treo ngày càng “chuyên nghiệp” hơn bởi kinh nghiệm được anh tích lũy, cùng với cá tính dám nghĩ, dám làm, ham học hỏi… Anh đã mua một số thiết bị như máy hàn, sà lan, máy ép cọc (dựng trụ cầu là những cọc bê tông dài 12m) với tổng vốn đầu tư có trên 150 triệu đồng, để rút ngắn thời gian và nâng cao chất lượng thi công…

Lực lượng lao động đi theo Sáu Quý làm cầu treo có tay nghề và kinh nghiệm đạt mức thành thạo, hiểu ý anh nên luôn thao tác chính xác, chất lượng bảo đảm, hạn chế sự lãng công, luôn hoàn thành công trình với thời gian ngắn nhất. Từ năm 1990 đến nay, Sáu Quý đã cất được 140 cây cầu treo, chưa có cây cầu nào xảy ra sự cố đáng tiếc.

“Ấn tín” mới của “vua cầu treo” ảnh 2

Cầu treo Phú Vĩnh.

Ông Dương Văn Hoe, (ngụ ở ấp Bình Phú, xã Bình Hòa, huyện Châu Thành, An Giang) cho tôi biết: “Sư cô Phúc Đại (là mẹ vợ anh Hoe) và tôi rất tin tưởng ở tay nghề và trách nhiệm của Sáu Quý, gần 40 cây cầu do sư cô bỏ vốn ra làm ở An Giang đều nhờ Sáu Quý thiết kế, thi công”.

Cây cầu Phú Vĩnh mà Sáu Quý vừa hoàn thành hôm 26 tết Mậu Tý có chiều dài 145m, rộng 3m, có tải trọng trên 2 tấn. Đứng trước cây cầu bề thế này mà lòng tôi không khỏi khâm phục Sáu Quý, anh chàng nông dân học chưa hết cấp I trường làng này lại cho tôi một bất ngờ nữa.

“Vua cầu treo” - Sáu Quý đã hoàn thành một công trình có thể nói chưa có một “tay ngang” nào dám làm. Cầu Phú Vĩnh được xây dựng rất giống cầu treo Mỹ Thuận, nối liền hai bờ sông cách nhau 110m. Bốn trụ cầu được làm bằng 64 cọc bê tông dài 12m (trụ điện lực) cắm sâu xuống đáy sông, với mỗi trụ có 16 cọc liên kết nhau. Phía trên những cọc bê tông này là trụ bê tông cao 5,5m, nối liền với trụ thép cao 16m, trên đỉnh có điểm tựa để đỡ cho 72 sợi cáp đường kính 22 ly treo cả sàn cầu lên cao. Sườn khung sàn cầu làm bằng thép; mặt sàn cầu được trải bằng loại tol 6 ly, có gờ để tráng lên một lớp nhựa dầy khoảng 0,01m… Cầu này có độ thông thuyền 55m, độ cao tĩnh không 5,5m (tính từ mặt đường lộ lên dạ cầu), với cả đường dẫn nó có chiều dài 145m. Bốn trụ đỡ dây cáp treo cao vút tạo nên một hình ảnh thật bề thế cho một công trình nổi trội hiện lên giữa vùng nông thôn An Giang.

Ông Nguyễn Văn Sáu, ở xã Phú Hòa bộc bạch: “Tôi sinh ra và lớn lên ở đây đã trên sáu chục năm rồi, bà con hai bờ con sông này qua lại chỉ biết dùng xuồng ghe, không ai tưởng nổi ở đây xây được một cây cầu vì hai bờ xa quá. Xứ này, tui chưa thấy cây cầu nào lớn bằng…”.

Mơ ước bao đời nối liền hai bờ sông để bà con qua lại thăm nhau, gắn kết tình làng nghĩa xóm, những chiếc cầu treo do Sáu Quý thiết kế thi công đã làm được điều mơ ước đó. Những chiếc cầu đó còn góp phần cho bà con vùng sâu vùng xa dùng xe chuyển những bệnh nhân đến các bệnh viện lớn cấp cứu kịp thời, giảm bớt những cảnh thương tâm đau xót nhờ giao thông thông thương, không còn cảnh ngăn sông cách trở…

Do đã thiết kế, thi công hàng trăm cây cầu treo phục vụ cho việc đi lại của nhân dân địa phương dễ dàng và an toàn, Phạm Ngọc Quý đã nhận được rất nhiều bằng khen của UBND tỉnh An Giang, bằng khen của Bộ Giao thông Vận tải, của Thủ tướng Chính phủ và là đại biểu của tỉnh An Giang tham dự Đại hội thi đua toàn quốc năm 2000…

Bây giờ, ai có dịp về An Giang, đến với Thoại Sơn, xin hãy ghé thị trấn Phú Hòa nhìn xem cây cầu treo Phú Vĩnh. Công trình này như một “ấn tín” khẳng định tay nghề của “Vua cầu treo” Sáu Quý khó có ai vượt qua…  

Mai Bửu Minh

Tin cùng chuyên mục