Hành trình theo những dòng nước

Bài 3: Trung Quốc và chuyện trị thủy thời hiện đại

Hành trình theo những dòng nước 
Bài 3: Trung Quốc và chuyện trị thủy thời hiện đại

Sau khi đã đi qua những làng quê và những thành phố của nhiều nước Đông-Nam Á, chúng tôi tới Trung Quốc vào tháng 12-2007 và tháng 1-2008, một đất nước mà càng đi về phía Tây-Bắc thì nguồn nước càng khan hiếm và quý giá. Trên bình diện cả nước, tính theo đầu người, Trung Quốc thiếu hụt nước nghiêm trọng.

Phù sa và dòng sông

Bài 3: Trung Quốc và chuyện trị thủy thời hiện đại ảnh 1

Một khúc sông Hoàng Hà.

Cái tên gọi Hoàng Hà - “sông vàng” - không phải ngẫu nhiên mà có. Băng ngang đất nước từ Tây sang Đông, phù sa làm cho dòng nước mang sắc vàng đặc trưng, là con sông có “nồng độ” phù sa cao nhất thế giới (trung bình 35kg/m3 nước). Lượng phù sa này phần lớn có nguồn gốc ở cao nguyên Loess rộng lớn (430.000km²).

Sông Hoàng Hà là nguồn cấp nước chủ yếu của cả vùng Bắc Trung Quốc rộng lớn. Trên suốt chiều dài 5.464km của nó, từ cao nguyên Tây Tạng tới cửa sông đổ ra biển ở Bố Hải (Bohai), dòng nước ấy nuôi sống hơn 100 triệu con người. 50 thành phố lớn của Trung Quốc nằm trên lưu vực sông này, trong đó có Bắc Kinh 18 triệu dân, Thiên Tân 10 triệu dân… Đây cũng là nơi có nhiều cụm công nghiệp, mỏ khai thác dầu khí, 15 đập thủy điện và nhất là 7,5 triệu héc ta đất trồng trọt.

Được coi là “sông cái” - “sông mẹ” nhưng Hoàng Hà luôn có những thời kỳ thiếu nước do hạn hán, khiến cho dòng chảy của nó không ra được tới biển. Tình hình trở nên nghiêm trọng tới mức, vào năm 1997, Hoàng Hà cạn sạch nước trước khi ra tới biển 700 cây số. Cũng có khi con sông lại gây ra những trận lụt tràn bờ (năm 1887, 1931, 1938), để lại hậu quả nặng nề, làm hàng ngàn người chết…

Từ hàng thế kỷ nay, con người tìm cách bảo vệ nhà cửa, ruộng đồng của mình bằng việc đắp đê và không ngừng gia cố hệ thống đê điều. Nhưng việc làm này cũng có “mặt trái” của nó. Trên 500 cây số cuối cùng của Hoàng Hà, trong dòng chảy được “ấn định” bởi các con đê, phù sa bồi đắp khiến cho lòng sông ngày càng nông, hệ quả tất yếu là các con đê phải ngày càng cao! Đến nỗi mà ngày nay, có những khúc sông ở đó đáy sông cao hơn đất đai xung quanh tới 13m!

Từ Hoàng Hà đến dòng Dương Tử

Việc bảo vệ nguồn nước sông Hoàng Hà, từ 60 năm nay, được giao cho Ủy ban Quản lý và bảo vệ sông Hoàng Hà, một tổ chức gồm 40.000 nhân viên có trụ sở nằm ở thành phố Chương Châu (Zhengzhou).

Vào cuối những năm 1990, để bảo vệ Hoàng Hà, ủy ban này quyết định phải có những “biện pháp mạnh”: Hạn chế lượng phù sa của con sông ngay tại “gốc” của nó, những triền dốc cao nguyên Loess. Ở đây, các sườn núi dựng đứng thường không có cây cối gì cả, lại còn bị suy yếu do nạn phá rừng và khai thác nông ngiệp. Đó là một miền đất khô hạn, lượng mưa trung bình hàng năm chỉ từ 200 đến 400mm. Nhưng những cơn mưa thường tập trung trong một thời gian ngắn, “rửa sạch” đất đai, làm trôi xuống lòng Hoàng Hà mỗi năm khoảng 1,6 tỷ tấn phù sa. “Đại công trường” bảo vệ cao nguyên đặt ngay ở nơi nó bị xói mòn nhiều nhất, huyện Ping Xin, tỉnh Thanh Hải. Công trình được Ngân hàng Thế giới tài trợ 300 triệu USD, trong 10 năm từ 1994 tới 2005.

Các sườn dốc được “tạo hình” thành những bậc terrasse, trên trồng cây chắn gió và giữ đất, cây ăn trái, trồng cả cỏ nữa. Rồi các đập chắn được dựng lên, để giữ nước và làm nơi cho phù sa lắng lại.

Một nông dân cho hay, sau 2 năm cải tạo, sườn dốc đứng của ông đã trở thành một vườn cây ăn trái, mang lại thu nhập đáng kể. Khoảng 2 triệu nông dân được trợ cấp trong khuôn khổ dự án, 4 triệu người được hưởng những lợi ích “gián tiếp” thông qua các công trình hạ tầng như đường sá, trường học, bệnh viện, dịch vụ điện, nước… Người ta ước tính, có khoảng 300 triệu tấn phù sa đã được “giữ” lại. Con số này sẽ được nâng lên tới 500 triệu tấn trong vòng 20 năm tới.

Dương Tử, 6.300km, là con sông lớn nhất Trung Quốc và là con sông dài thứ 3 trên thế giới, vì thế nó còn có tên gọi là Trường Giang - “sông dài”. Sông Dương Tử chảy qua địa phận 11 tỉnh, từ những năm 1930 ở Trung Quốc đã có một tổ chức quản lý “tổng thể” dòng sông (nước này hiện có 7 tổ chức như thế, chịu trách nhiệm về những dòng nước chính, trực thuộc Bộ Tài nguyên Nước).

Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Ủy ban Bảo vệ nguồn nước Trường Giang - Chiangjiang Water Resources Commission (CWRC) là tìm cách hạn chế những thiệt hại về lũ lụt do dòng nước mạnh mẽ hiếm có này (lưu lượng tới 60.000m3/giây) gây ra. Chính phủ Trung Quốc quyết định dành 1 tỷ euro mỗi năm, trong vòng 5 năm, cho việc trị thủy sông Dương Tử. Năm 2002, 4 tỷ mét khối đất đã được dùng để đắp 8.000 cây số đê.

Theo các chuyên gia, ngoài các con đê này thì cần phải có sự “trợ lực” của đập khổng lồ Tam Hiệp. Ủng hộ hay phản đối Tam Hiệp, người ta không khỏi “ngợp” khi nhìn thấy nó: 2,3km dài, 156m cao, một tổ hợp thủy điện bên cánh trái, một tổ hợp khác bên cánh phải, một âu thuyền 5 mức nước cho phép những con tàu trọng tải tới 10.000 tấn đi qua… Đập Tam Hiệp trên sông Dương Tử là công trình dân sự lớn nhất Trung Quốc kể từ sau Vạn Lý Trường Thành, dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2009.

Nếu người ta nói rất nhiều về đập Tam Hiệp thì ở Trung Quốc hiện nay, cũng liên quan tới nước, có một công trình vĩ đại không kém, nếu không nói là còn to lớn hơn, vì số tiền đầu tư cho công trình này nhiều gấp đôi, lên tới 40 tỷ euro. Đó là công trình “Đưa nước miền Nam lên phương Bắc” (South-North Water Transfer), được đề xuất và tranh cãi trong gần 50 năm, chính thức khởi động vào cuối những năm 1990. Năm 1952, trong một chuyến đi thị sát sông Hoàng Hà, Chủ tịch Mao Trạch Đông nói: “Miền Bắc thiếu nước trong khi miền Nam lại rất dồi dào. Nếu làm được, miền Bắc có thể mượn nước của miền Nam”. Năm 1958, bản nghiên cứu đầu tiên về việc này ra đời. Ý tưởng chủ đạo của dự án là dẫn một phần nước sông Dương Tử ở phía Nam cho chảy vào các con sông miền Bắc.

NHỊ BÌNH (theo Libération)


Thông tin liên quan

Hành trình theo những dòng nước 

Bài 2: Những vòi nước cho tương lai

Bài 1: Ở nơi mưa “rơi” ngang

Tin cùng chuyên mục