
Dò dẫm đến được buôn làng của người Lạch dưới chân núi Lang Bian - núi mẹ trong tâm thức của đồng bào Lạch ở cao nguyên Lâm Viên - thì đã xế chiều. Tôi hỏi đường đến nhà già làng. Khi nghe người đàn ông trung niên có thân hình vạm vỡ như con gấu, mái tóc dài, xoăn buộc đuôi ngựa rất lãng tử và ánh mắt, nụ cười tin cậy ấy giới thiệu: “Mình chính là Krajan Plin - già làng đây” thì tôi… phát hoảng.
Là bởi vì trong suy nghĩ của tôi, già làng ở Tây Nguyên chắc cũng phải như những đồng sự ở miền núi phía Bắc, nghĩa là đạo mạo và lụ khụ đến độ khiến lần đầu gặp, ta phải sợ sệt, e dè. Khi đã mặn chuyện, tôi thú thật suy nghĩ của mình, anh chàng già làng ấy cười ha hả rồi từ tốn giảng giải: “Với người Lạch, già làng tất nhiên là phải có uy tín với đồng bào để điều hành buôn làng theo luật tục, thay mặt buôn làng giao tiếp với bên ngoài, phải am hiểu phong tục tập quán và có uy để hành lễ, giao tiếp với Yàng, với thần linh. Già làng phải giỏi nhưng không nhất thiết phải già…”. Lần hạnh ngộ đầu tiên của 8 về trước ấy, Plin cho tôi cảm giác lạ lẫm, kỳ bí như rừng già.

Phút ngẫu hứng của thầy trò nghệ sĩ Krajan Plin.
Buôn Đăng Ya - xã Lát (nay là thị trấn Lạc Dương) - huyện Lạc Dương - tỉnh Lâm Đồng, một ngày gió lộng và nắng chói chang của năm 1961, khi đứa bé Krajan Plin oe oe cất tiếng khóc chào đời, chả ai nghĩ lớn lên nó sẽ thành già làng trẻ nhất Tây Nguyên.
Người ta chỉ cầu phúc cho nó mạnh khỏe, hay ăn chóng lớn để biết đi rừng săn thú, xuống suối bắt cá… chứ ai biết đâu mà mong lớn lên nó trở thành nghệ nhân, nghệ sĩ, nhạc sĩ, nhà nghiên cứu. Chắc là Yàng chọn. Hay do Plin biết dung hòa bản tính lãng mạn, phóng khoáng của người Tây Nguyên với tri thức?
Tốt nghiệp Trung cấp Y tế tỉnh Lâm Đồng, năm 1980, y sĩ Krajan Plin nhận công tác ở Trạm y tế xã vùng sâu Đam Rong - huyện Lạc Dương, cách nhà gần 100km đường rừng. Vận động đồng bào ăn ở vệ sinh, khám bệnh, phát thuốc là công việc quen tay của Plin bởi gia đình vốn có truyền thống theo nghề y, bản thân lại tận tình, chu đáo và khéo tay nữa nên bà con quý anh chàng y sĩ mát tay và hiền hòa ấy lắm. Thế là nghề chính trở nên nhẹ nhàng như việc phụ.
8 năm làm y sĩ ở Đam Rong, tuy điều kiện công tác và đời sống rất khổ cực nhưng đã mang lại cho Plin nhiều điều, đáng kể nhất là sự khơi mở của con đường sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân tộc… Nhớ lại ở buôn làng mình, bà con phần vì mải miết mưu sinh, phần chịu tác động dòng chảy văn hóa ngoại lai nên không còn chí thú đến đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc mình. “Nếu cứ thế này, chẳng mấy chốc, những phong tục tập quán tốt đẹp của người K’Ho sẽ mai một hết”. Tự vơ vào mình nỗi lo lắng ấy, anh quyết tâm xắn tay vào cuộc.
Từ chối cơ hội đi học bác sĩ, năm 1988, Plin xin chuyển sang ngành điện lực chỉ với một suy nghĩ: “Thợ điện quanh năm được đi khắp núi cao vực sâu để dựng cột, kéo dây như thế thì chắc nhiều chuyện hay lắm”. Ở điện lực được 3 năm, vừa thỏa chí đi đây đi đó, vừa được tham gia các hoạt động văn nghệ tại cơ quan, vừa tranh thủ tự học tiếng Anh, tiếng Pháp, tin học, lái xe… Năm 1991, Plin chuyển về Đoàn ca múa nhạc dân tộc tỉnh Lâm Đồng.
Về đúng nơi được quanh năm suốt tháng đi đàn ca sáo nhị, Plin như rồng thêm vây, hổ thêm cánh, anh say sưa cơm đùm cơm nắm theo đoàn gồng gánh đạo cụ đi khắp các buôn làng trong tỉnh biểu diễn phục vụ bà con. Thỏa chí. Nhưng một chiều mưa buồn, đứng trên triền dốc nhìn xuống đồi thông, Plin chợt ngộ: hóa ra bao lâu nay, để đi hát phục vụ công tác tuyên truyền, mình toàn hát những bài cổ động, nhạc xập xình, lời sáo rỗng, nghe rồi quên; để mưu sinh, để khoe sức, khoe giọng, mình toàn hát nhạc Anh, Mỹ, Pháp, Tây Ban Nha dưới ánh đèn màu điên đảo quét trong đặc quánh khói thuốc, men rượu, hơi bia ở những chốn xô bồ. Chả có cái gì là Plin, là Lạch
…Năm 1995, cắt phăng những gì xưa cũ, Krajan Plin thảnh thơi về buôn để thỏa chí được làm cái của riêng mình. Trên những nẻo đường lãng du từ khi còn là y sĩ, đến thợ điện, văn nghệ quần chúng, Plin đã chú tâm tìm hiểu, sưu tầm những bài dân ca K’Ho, rồi mày mò thử sáng tác những bài hát bằng tiếng K’Ho với lời lẽ dễ hiểu, giai điệu mới nhưng mang âm hưởng dân ca để nghêu ngao hát chơi. Thế nên tập nhạc của anh cũng đã có kha khá bài hát ra chất Tây Nguyên. Giờ về buôn, làm sao để hát cho bà con nghe bây giờ?
Vò đầu bóp trán mãi, Plin quyết định phải chơi đến cùng, đã có bài hát thì phải sắm dàn nhạc để biểu diễn. Nhìn khắp nhà chỉ có đàn trâu là đáng giá. Nhưng người ta đang mua thêm không được, mình lại bán trâu đi thì lấy đâu sức kéo, lấy gì phân biệt người sang, kẻ khó? Chưa kể 10 con trâu ấy còn là của hồi môn mà cha mẹ anh cho trước khi về nhà vợ. Nghĩ lung lắm nhưng đã quyết là làm, Plin gọi người đến bán sạch đàn trâu được gần chục triệu đồng để lấy tiền mua trống, sắm đàn, tậu loa…
Rồi một ngày đẹp trời, Plin tụ họp anh em, bè bạn, làm một bữa rượu cần nghiêng ngả để tuyên bố thành lập nhóm Những người bạn Lang Bian. Khoảng sân rộng sau nhà được anh trưng làm đại bản doanh của nhóm nhạc. Ngày ngày, từ nương rẫy về, ném cái xà gạc vào góc nhà, hạ cái gùi xuống, 12 chàng trai cô gái đầy nhiệt huyết ấy lại hăng hái tập hát, chơi đàn, đánh chiêng, thổi kơm buốt, hát đối đáp dêh kô, dêh lờng... vang một góc buôn. “Rồi tụ họp anh em đàn hát. Hát hò thuần thục rồi thì kéo nhau đi góp vui trong những dịp buôn làng có đám cưới, đám hỏi, lễ lạt...” - Plin nhớ lại.
Nhóm nhạc Những người bạn Lang Bian nhanh chóng gây được ấn tượng mạnh trong lòng công chúng khi biết kết hợp hài hòa giữa bảo tồn và phát huy vốn cổ. Chương trình cứng của nhóm được định hình: Cồng chiêng Đón khách (bài bản xưa), giới thiệu các điệu chiêng khác: Tiếng chiêng Proh gọi bầy, Tiếng chiêng Dênh gọi mưa, Tiếng chiêng mừng ngày hội v.v…, độc tấu kèn bầu (kơm buốt), hát đối đáp dêh kô, dêh lờng, dêh reng…
Lúc đầu, Plin bán trâu tậu nhạc cụ, vay mượn tiền của bạn bè, họ hàng mà ngăn nạn chảy máu cồng chiêng… cũng chỉ với mục tiêu nhằm giữ lại những nét văn hóa truyền thống của dân tộc K’Ho: tái hiện lại các lễ hội cúng Yàng, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, bảo tồn bài bản 36 nhịp chiêng... Dần dà, khách du lịch yêu cầu, nhóm chuyển sang biểu diễn chuyên nghiệp. Nhóm có 20 thành viên, từ những em bé 4-5 tuổi đến những người 50 tuổi.
Các chương trình hát, múa, đánh chiêng… của nhóm đều được anh dàn dựng công phu để giúp du khách thấm đẫm hồn Tây Nguyên trong vòng từ một tiếng rưỡi đến hai tiếng đồng hồ. Không chỉ giới thiệu bản sắc văn hóa dân tộc đến đông đảo du khách, góp phần cải thiện đời sống của các thành viên, nhóm còn là nơi phát hiện và bồi dưỡng những tài năng văn nghệ. Anh hể hả lắm khi đã có hơn chục em học sinh là thành viên của nhóm, sau khi tốt nghiệp THPT, được anh gửi đi học ở các trường nghệ thuật và tất cả đều biết làm tài năng ca hát của mình thêm dậy hương.
Bắt được vàng, Trung tâm du lịch Đà Lạt ngay lập tức đưa chương trình của nhóm vào tour. Vậy là tối tối, tại nhà sàn của Krajan Plin ở chân núi Lang Bian, khách du lịch được đắm chìm vào những phong tục tập quán, những lời ca điệu hát đặc sắc của đồng bào Lạch. Từ nhóm cồng chiêng Những người bạn Lang Bian do già làng Krajan Plin thành lập vào năm 1995, đến nay cả vùng đã có 12 đội, nhóm văn nghệ với khoảng gần 300 thành viên thường xuyên biểu diễn điệu chiêng, nhịp xoang, tiếng kèn tămpơt… để chinh phục thiện cảm của du khách gần xa.
Ở vùng đất huyền thoại này cũng có nhiều gia đình nghệ thuật như: gia đình Krajan Dick, Phó đoàn ca múa nhạc dân tộc tỉnh Lâm Đồng, gia đình Pang Ting Mút có rất đông anh em trong dòng họ theo nghệ thuật, gia đình của già làng Krajan Plin hiện có 2 người con đang theo học ngành nghệ thuật… Công đầu thuộc về chàng già làng Krajan Plin.
Đêm. Sương vấn vít. Núi rừng thinh lặng. “Hãy nổi lửa lên!” - già làng Krajan Plin phát lệnh. Lửa rực hồng. Hai ché rượu cần được khui ra. Plin đứng lên tiến hành nghi thức đón khách. Anh cầu khấn thần linh phù trợ cho buôn làng và mọi người. Giọng anh ngân dài: “Bo krong… Chau go! Cau lec mur… lec mac… hat mong, dhau yô, chau joh…!” - “Hỡi thần linh! Đến uống đi! Đến uống nào! Hãy đến vui cùng buôn làng chúng tôi! Đến uống rượu cần làm từ hạt lúa mẹ, từ dòng suối nguồn ngọt ngào!...”. Tiếng chiêng ngân vang. Rượu cần nghiêng ngả. Những Cil Sra, Krajan Doal, Dagout Gli cùng múa hát với Yến, Minh, Michel, Alain…
Mới 47 tuổi nhưng Krajan Plin đã được bà con ở các buôn làng quần cư dưới chân núi Lang Bian tín nhiệm bầu đảm nhận trọng trách già làng từ 8 năm nay. Trái với suy nghĩ của nhiều người, vị già làng này không mang dáng vẻ uy nghiêm, bí ẩn mà rất dễ gần, cuốn hút và… hiện đại. Anh lái ôtô, phóng xe máy phân khối lớn vèo vèo, lướt web thuần thục, gõ laptop rào rào... “Phải tiếp cận những tiến bộ của nền văn minh thế giới chứ, phải hiểu biết cổ kim đông, tây thì mình nói bà con mới nghe. Mình lấy cái hiện đại để giữ vốn cổ” - anh tự hào. Tìm được Krajan Plin khó lắm bởi cứ xểnh ra là anh xê dịch khắp nơi. Anh đi để lấy cảm hứng làm thơ, chụp ảnh, để sưu tầm văn hóa, để thỏa chí vẫy vùng.
Krajan Plin kể rằng: “Hồi nhỏ tôi thường được cha thổi kèn bầu (kơm buốt) cho nghe. Gia đình tôi có truyền thống yêu âm nhạc, ba mẹ đều là những nghệ nhân hát dân ca, tối tối cha thường thổi kèn bầu để ru vợ con ngủ, sáng sáng người dùng tiếng kèn bầu để gọi vợ dậy sớm đi lấy nước, giã gạo, thổi cơm… Và từ khi nào, những điệu kèn, câu hát đã trở nên quen thuộc, thấm đẫm trong tâm hồn, rồi tôi bắt đầu thích ca hát, nhảy múa, viết nhạc từ khi nào không hay…”. Để trả nợ âm nhạc, anh đã chọn 40 bài hát đặc sắc nhất của mình, phần để in thành đĩa CD, phần để đăng tải trên internet để chia sẻ niềm đam mê khúc ca đại ngàn với đông đảo công chúng.
Đưa tôi xem cuốn Luật tục K’Ho Lạch gồm 315 trang A4 đánh máy, ghi chép và chú giải 1.000 điều, chia làm 50 chương về tất cả đời sống tinh thần của đồng bào K’Ho, anh khoe sắp xuất bản. Rồi chưa để tôi hết ngỡ ngàng với cuốn sách chứa đựng tinh thần câu nói: “Miệng của thần linh/Lưỡi của các già làng” ấy, Plin đã bồi tiếp: “Tiếp đó, tôi chuyên tâm hoàn thành công trình âm nhạc dân gian của người K’Ho, rồi đến công trình sử thi của người K’Ho. Chuyên tâm đi sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian từ năm 1995 đến nay, nhưng có thứ phục vụ công việc ngay, có thứ mình cứ để dành trong kho tư liệu rồi hoàn thiện dần… Trót yêu nhiều thứ quá nên phải trả nợ từng thứ một chứ biết làm sao!”.
Giữa lúc ấy, một chàng thanh niên ào ào bước vào cắt ngang cuộc trò chuyện của chúng tôi. Anh mới mua cây đàn guitar điện tử nên mang đến khoe với già làng. Plin thử đàn, so phím rồi hai thầy trò ngân vang khúc hát dịu êm, thanh tịnh: Dòng suối mát lấp lánh vì sao/Vầng trăng lên sáng buôn làng ta... Tôi thấy lòng mình lâng lâng, dường như chàng già làng lãng tử ấy đã đưa tôi về miền cổ tích.
Đỗ Quang Tuấn Hoàng