Dân ngoài đê

Dân ngoài đê

Vùng “ngoài đê” Hà Nội là rẻo đất nằm kẹp giữa con đê song song đường Hồng Hà và bờ sông Hồng. Phía bờ bên kia, tức thuộc địa phận quận Long Biên, cũng có đê, cũng có rẻo đất ngoài đê nhưng người Hà Nội chỉ sử dụng khái niệm “ngoài đê” cho bờ bên này. Ấy có lẽ là do thói quen từ bao đời.

Ngược lịch sử, giữa  thế kỷ XIX vốn là đất ngoài đê thuộc các làng cổ Bảo Linh, Thanh Yên, Nguyên Khiết, Biện Dương, Đông Trạch, Lãng Hồ, Tự Nhiên, Trúc Võng thuộc tổng Tả Túc, huyện Thọ Xương. Năm 1902, Pháp cho khánh thành cầu Đu Me (dân quen gọi là cầu Long Biên) thì số phận các làng cổ ngoài đê bắt đầu thay đổi theo chương trình đô thị hóa của chính quyền thực dân. Sau năm 1954, Hà Nội được giải phóng, ngoài đê mọc lên hàng loạt nhà ngói và nhà gỗ tập thể cho cán bộ công nhân viên nhà nước. Sau đó, đến giai đoạn “Chương trình 5 tầng hóa” ở thập niên 80 và đầu những năm 90, những lô nhà tập thể cao tầng nô nức mọc lên, xen lẫn với những mái ngói lụp xụp.

Một góc khu dân cư ngoài đê giáp cầu Long Biên hiện nay.

Một góc khu dân cư ngoài đê giáp cầu Long Biên hiện nay.

Lịch sử của một vùng đất luôn gắn với lịch sử cư dân của nó. Ban đầu, đất ngoài đê quanh năm lụt lội. Dân ngoài đê gần như tất thảy là người ngoại tỉnh do đói kém về Hà Nội kiếm ăn. Ăn còn chẳng đủ, nghĩ gì đến chuyện mua nhà định cư. Vì thế, đất ngoài đê vốn vô chủ đã trở thành nơi cư ngụ của họ. Cũng thời đầu ấy, dân ngoài đê thường bị coi là tầng lớp “khố rách áo ôm”.

Đất ngoài đê luôn gắn với cảnh tăm tối, là nơi hội tụ của những tệ nạn khốn cùng. Hòa bình lập lại, rồi thủy điện Hòa Bình được xây dựng, mươi, mười lăm năm, đất ngoài đê mới phải chịu cảnh ngập lụt một lần. Mà cũng chưa đến nỗi trắng xóa. Năm nào nước cao nhất thì cũng chỉ lưng nhà. Tức là, nhà nào cao hoặc có gác thì vẫn tồn tại được. Cũng bởi thế, sau này có tiền có của, đặc trưng nhà ngoài đê là móng cao hơn hẳn mặt đường hàng chục phân.

Dần dà, đất ngoài đê cũng được đưa vào danh sách quản lý của nhà nước. Ngoài dân ngụ cư, giờ có thêm nhiều cán bộ, công nhân viên Nhà nước ra sinh sống. Cùng đó, còn có không ít dân trong phố vì điều kiện khó khăn chật chội nên cũng tìm cách chuyển ra ngoài đê. Vậy là, “khoảng cách” giữa trong đê và ngoài đê xích lại ít nhiều.

Trong đê và ngoài đê, chỉ cách nhau một con đê, nhưng rõ ràng vẫn là hai thế giới khác nhau. Trong đê là tiếp giáp với phố cổ, nhiều dân Hà Nội gốc, nên tính cách thuần nhất hơn. Ngoài đê, mười phần thì chín phần rưỡi là dân khắp nơi về định cư. Thành phần cư dân đa dạng, dẫn đến tính cách cũng đa dạng hơn.

Tính cách ngoài đê trước hết thể hiện ở những ngôi nhà. Thú thực, mỗi khi bước chân vào một con hẻm ngoài đê, luôn thấy gai gai người. Hẻm nào cũng hẹp và tối om om, có cái chỉ vừa một xe máy, đi vào ban ngày cũng phải bật đèn pha. Chẳng những thế, hình như cả cái đất ngoài đê, không có con hẻm nào thẳng. Đó là hậu quả của thói bon chen quyết liệt ở cái thời đất đai chưa được quản lý chặt chẽ. Nhà tham thì cố nới thêm tý ở tầng một, lên tầng hai cơi ra hết cỡ, nhà “biết điều” xây thụt vào vài chục phân để lấy chỗ quay xe. Đất chật, người đông, va chạm về “quyền sử dụng đất” xảy ra như cơm bữa, cãi nhau choe chóe cả ngày.

Đất ngoài đê vốn nổi tiếng là nơi cư ngụ của nhiều thành phần bất hảo. Thế nhưng cũng lạ, nơi ấy, chẳng mấy khi mất cắp bao giờ. Cho dù, nhà cửa san sát bao lơn nhà nọ bước qua mái nhà kề bên dễ như bỡn. Xe máy để đầy ngoài ngõ từ sáng đến tối đêm. Có người quên còn để xe qua đêm cũng chẳng mất... Dù chưa có được tính cách nhẹ nhàng tinh tế như người trong đê nhưng giờ người ngoài đê cách ứng xử cũng khá hơn xưa. Cuộc sống khá lên rồi, con người ta cũng văn minh hơn!

DIÊN VỸ

Tin cùng chuyên mục