Giải “oan” cho làng biển Quảng Thái

Ngày trước, ở quê trên “mạn” huyện Đông Sơn chúng tôi, đã nghe tiếng về làng ăn xin Quảng Thái (huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa). 

Chúng tôi nghe rằng, người Quảng Thái cứ tết đến là đóng cửa nhà đi ăn xin, xong tết mới về, và xem đó là “tục lệ” của làng. Sau này, khi nói chuyện về ăn xin, người ta lại nghĩ đến Quảng Thái. Quảng Thái trở nên “nổi tiếng” vì lẽ đó. Bây giờ, cái sự mang tiếng ấy đã trở thành dĩ vãng về một thời khốn khó.

Làng biển bị oan

Đến Quảng Thái trong những ngày giáp Tết Kỷ Hợi, thấy vùng quê này đã mang nhiều nét phố. Nhiều nhà cao tầng mọc lên san sát, rồi cây xăng, phòng khám bệnh, quán karaoke… nhưng nhích lên khoảng mấy trăm mét, từ con đường chính giữa xã, là làng biển với những nét hoang sơ, thanh vắng. Vài chiếc bè mảng nằm nép mình dưới rặng phi lao, ngoài biển lác đác vài bè mảng đang đưa cá vào.

Gia đình ông Lê Ngọc Y ở xóm 5 là một hình mẫu gia đình làng biển. Sau khi đàn ông đi bè mảng về, cả nhà lại quây quần ngồi gỡ cá, trẻ con nô đùa chạy nhảy. “Cá lẹp kẹp bánh đa” là một đặc sản của vùng biển này. Ông Y cho hay, xóm ông xưa được gọi là làng Vượng Hải, hay còn gọi là làng Bể (làng Biển). Vùng này là bãi ngang, không có luồng lạch nên không có tàu lớn đánh bắt xa bờ. Người làng chỉ đánh bắt gần bờ bằng bè mảng, với các loại hải sản như cá lẹp, trích, moi (tép biển), sứa…

Giải “oan” cho làng biển Quảng Thái ảnh 1 Gia đình ông Lê Ngọc Y ở xóm 5 (Quảng Thái) gỡ cá lẹp mới đánh bắt về
Để có một bè mảng, ngư dân phải bỏ ra từ 50 - 70 triệu đồng. Vì nghề biển là nghề truyền thống của ông cha nên người dân nơi đây vẫn theo để giữ nghề, còn để làm giàu thì rất khó. Hỏi chuyện về sự tích ăn xin được lưu truyền, ông Y kêu lên: “Thật oan cho dân chúng tôi quá. Làm gì có chuyện như người đời đồn thổi. Chúng tôi thực sự không hiểu sao cái việc ăn mày, ăn xin lại “ám” vào người Quảng Thái thế không biết”.

Cũng như nhiều thanh niên khác trong làng, Tô Văn Phú phiêu dạt vào Nam làm đủ nghề từ công nhân, bán hàng rong… Cách đây khoảng 10 năm, Phú về quê. Với kinh nghiệm học được về nghề điện tử, Phú mở một cửa hàng nhỏ phục vụ bà con trong vùng. Tham gia hoạt động các phong trào địa phương, phấn đấu đi lên, hiện Phú là Bí thư Đoàn xã Quảng Thái.

Phú chia sẻ: “Em đã đi nhiều nơi, nhưng nghĩ đi nghĩ lại không đâu bằng quê mình. Mặc dù quê đất chật, người đông, nhưng ông cha mình đã lập nghiệp ở đây, sinh mình ra ở đây, chẳng lẽ mình không sống được ở đây. Nhưng có đi ra mới biết, khi nói về Quảng Thái, người ta cứ nghĩ là làng ăn mày. Buồn lắm anh ạ. Có người còn mạo danh Quảng Thái, làm xấu người Quảng Thái. Không hiểu sao lại có lời đồn ác ý đến thế”.

Chỉ có “xin” chữ

Tôi may mắn gặp được bác Tào Quang Đảnh (72 tuổi), một “pho sử” về làng Quảng Thái. Sau khi rời quân ngũ, bác Đảnh về quê làm Bí thư Chi bộ hợp tác xã, rồi Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Quảng Thái 3 khóa liền. Đến năm 2006, bác Đảnh nghỉ hưu và làm Chủ tịch Hội Người cao tuổi từ đó đến nay. Nói về “sự tích” làng ăn mày, bác Đảnh cho biết: “Đó chỉ là tin đồn, chuyện hư cấu!”.

Bác Đảnh kể, hiện nay Quảng Thái có 2.174 hộ dân với hơn 10.500 nhân khẩu, nhưng tổng diện tích đất toàn xã chỉ có 405ha. Quảng Thái được hình thành trên vùng đất chỉ toàn cồn cát cách đây khoảng hơn 500 năm, thời Hậu Lê. Xưa Quảng Thái có làng Đồn Điền, sau thêm làng Hà Đông và Vượng Hải. Lịch sử hình thành được ghi dấu bằng ngôi đền làng Đồn Điền thờ thành hoàng làng. Sử sách chép, đền rộng 5 mẫu 9 sào 9 thước 8 tấc, qua thời gian và chiến tranh đền bị phá, đến năm 2010 mới được phục dựng lại trên diện tích 3.000m2. Từ sử sách cho đến thực tế đều không có bằng chứng nói Quảng Thái có “truyền thống” ăn mày.

Giải “oan” cho làng biển Quảng Thái ảnh 2 Thế hệ tương lai của Quảng Thái
 Có lẽ, việc người Quảng Thái bị mang tiếng “làng ăn xin” xuất phát từ thời điểm những năm 1980. Theo bác Đảnh, đây là thời điểm “hụt hẫng quá lớn” đối với người dân Quảng Thái. Xã này vốn rất ít đất nông nghiệp, trong khi đó, do chuyển đổi cơ cấu kinh tế nên phần lớn đất nông nghiệp của xã được giao sang cho các xã Quảng Lưu, Quảng Nhân và Quảng Lộc. Cả xã chỉ còn 1 HTX nông nghiệp, 2 HTX thủ công và 5 HTX đánh bắt cá. 2 HTX thủ công chuyên làm chiếu cói xuất sang Liên Xô và Đông Âu. Sau khi thị trường này không còn, bà con mất luôn việc làm. Đất nông nghiệp ít (chỉ có 95ha lúa), nghề biển gặp khó khăn, không xoay xở được. Đặc biệt, các trận thiên tai, bão lũ năm 1980, 1989 đã tàn phá, gây thiệt hại nặng nề cho dân, biển “ăn” mất của làng tới 180m đất.

Trong cơn “bĩ cực”, đói kém, lại gặp thời mở cửa nên dân làng Quảng Thái bung ra khắp nơi. Nhiều gia đình dắt díu nhau đi kinh tế mới, ở tập trung thành làng như ở Đắc Lua (Tân Phú, Đồng Nai). Thanh niên, người khỏe mạnh thì tỏa đi các thành phố lớn như TPHCM, Đà Nẵng, Hà Nội… bán sách báo dạo, bán hàng rong, đánh giày. Cho đến hiện nay, vẫn có khoảng 50% người dân đi làm ăn xa, gia đình có con nhỏ thì để ở nhà cho ông bà già chăm nuôi.

Bác Đảnh trầm ngâm: “Đúng là trong quá trình đi mưu sinh vẫn có người ăn xin, chủ yếu là các cháu nhỏ không đủ điều kiện học hành, hoặc một số ông bà già neo đơn, nhưng là số ít, không thể là cả làng ăn xin được”.

Thời khốn khó, đói kém, câu truyền miệng của người Quảng Thái là “Văn chương không bằng xương cá lẹp” (miếng ăn không có để cho vào miệng thì việc học hành, chữ nghĩa chỉ là thứ yếu, phù phiếm). Ngay cả người như bác Đảnh, ban ngày “làm quan”, ban đêm vẫn phải cùng con ra biển đánh bắt cá. Đến nay, Quảng Thái vẫn còn 99 hộ nghèo, chiếm khoảng 4,26%. Tuy vậy, việc học hành của con em ở làng không còn bị bỏ mặc như xưa. 

Bà Phạm Thị Tú, Chủ tịch Hội Khuyến học xã Quảng Thái kể, cách đây khoảng 15 - 17 năm, có thời điểm các cháu bỏ học theo cha mẹ đi làm ăn xa, cả cấp 2 chỉ có 9 học sinh! Nhưng bây giờ, việc học được người dân Quảng Thái chú trọng bậc nhất, không có cháu nào phải bỏ học. Hiện khối mầm non có 480 cháu, tiểu học hơn 1.000 cháu, THCS 584 cháu.

Bà Tú liệt kê, xã hiện có 6 tiến sĩ, hàng chục thạc sĩ, nhiều người là sĩ quan quân đội, bác sĩ… Chỉ tính sơ sơ, riêng các cháu đậu đại học, năm 2013 xã có 30 cháu, đến năm 2017 là 40 cháu. Như năm học 2016 - 2017, cháu Lê Đình Nguyên thi vào đại học có số điểm cao nhất tỉnh Thanh Hóa. Bà Tú không giấu vẻ tự hào: “Người quê tôi giờ đang đi xin đây, nhưng là xin cái chữ, xin tri thức chú ơi!”.

Tin cùng chuyên mục