
Một lão nông người Dao đỏ, ít học, lại ở chót vót trên đỉnh núi cao Lũng Pô -nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt, cuộc sống khó khăn, thiếu thốn trăm bề. Ấy vậy mà lão dám “cõng” nước lên non trồng cây lúa nước. Chẳng những làm giàu cho riêng mình, lão còn giúp dân bản cùng no ấm, giữ được rừng, trồng được thảo quả… Đó là ông Phàn Phù Lìn, 65 tuổi, ở bản Phìn Ngan, xã Trịnh Tường, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
Khơi nguồn nước

Ông Lìn (trái) bên con dâu và cháu nội.
Con đường đất, quanh co, gấp khúc, rặt những ổ trâu, ổ voi vươn dài lên cao khiến chiếc xe Uoát cứ nhảy tưng tưng, gầm gừ phun khói mù mịt mới đưa được chúng tôi đến chiếc chòi canh cá của ông già họ Phàn nằm vắt vẻo trên sườn đồi. Bên dưới là cả một hồ cá rộng hơn 1 ha. Hồ trên núi. Tôi ồ lên thích thú.
Trong chòi vọng ra tiếng phát thanh viên chương trình “Bạn nhà nông” của Đài Tiếng nói Việt Nam. Anh bạn dẫn đường người địa phương gọi một hồi không thấy lời đáp, chép miệng: “Ông lão lên dinh thự rồi; mở đài ra rả cả ngày để đánh lừa kẻ xấu đấy”.
Xuống xe, cuốc bộ luồn lách thêm 6 km đường rừng khi dốc dựng đứng, suối chắn ngang, lúc chằng chịt cây dại, chúng tôi mới gặp được ông lão đang mải mê bên những luống rau xanh mát mắt trong khu vườn sau nhà. Ngôi nhà gỗ của ông Lìn rộng rãi thoáng đãng, ngoài 2 gian lớn thênh thang, còn có gác xép chứa đồ đạc, nông sản, có cả gian bếp tinh tươm và khu vệ sinh sạch sẽ, biệt lập.
Trước nhà, sân xi măng bóng láng. Sau nhà, ao cá, chuồng lợn, chuồng gà... đâu vào đấy. Đồ đạc nội thất của căn nhà cũng khiến tôi không khỏi ngạc nhiên, nào tủ tường, ti vi, đầu đĩa, loa nén, rồi quạt điện, radio...
Sau khi “tham quan” một vòng, gia chủ mời chúng tôi vào nhà uống chè. Bằng giọng đều đều, ông Phàn Phù Lìn kể: Trước năm 1988, cũng như tập quán của đồng bào dân tộc, người Dao đỏ ở thôn Phìn Ngan chủ yếu canh tác theo kiểu du canh du cư. Trung bình mỗi hộ gia đình phá 2 ha rừng để có đất trồng trọt. Vất vả lắm mới tìm được một vạt rừng mà phát nương làm rẫy nhưng cũng chỉ trồng trọt được đến năm thứ ba là đất đã bạc màu.
Lại khăn gói lên đường tìm nơi định cư mới, rồi chặt cây, đốt rừng làm nương rẫy. Nguồn nước tưới trông ngóng vào những cơn mưa thất thường nên trồng cây gì cũng đều cho năng suất thấp. Làm lụng chăm chỉ, vất vả quanh năm suốt tháng và phải khéo thu vén lắm thì mới đủ ăn. Vậy mà năm nào cũng vậy, hầu hết 27 gia đình trong bản đều thiếu ăn 4 - 5 tháng, phải dắt díu nhau đi đào củ mài, hái rau rừng ăn qua ngày. Rừng trơ trụi, Phìn Ngan lại trở thành rốn lũ.
Cái vòng luẩn quẩn phá rừng-thiên tai-đói nghèo cứ vây xiết. “Riêng tôi –lúc đó mới 18 tuổi nhưng đã là trưởng bản- học hành chẳng đến đâu nhưng nhờ chịu khó bớt tiền uống rượu để mua pin nghe đài nên cũng biết lắm chuyện xa gần. Thấy đài bảo làm ruộng thì phải có nước tưới, muốn trồng lúa nước thì phải bỏ du canh du cư mà làm ruộng bậc thang, tôi mê tít và quyết chí làm theo…” –ông Lìn kể.
Nhưng muốn khuyên dân bản, không thể nói suông. Nghĩ vậy, ông Lìn về huy động con, dâu, rể cả thảy 10 người đi cải tạo đồi dốc khô cằn làm ruộng bậc thang, lại cơm đùm cơm nắm đi khắp các mỏm núi tìm khe nước. Rồi gia đình ông cũng tìm được nguồn nước ở chót vót trên đỉnh núi đằng sau bản, nằm cách nhà gần 4 km. Cuốc, xẻng, búa chim bổ xuống đá sỏi đến tóe lửa, chân tay chai sần, ứa máu.
Gặp đá tảng, đá hộc chặn lối, ông phải tất tả xuống núi tìm mua thuốc nổ để phá đá, khơi dòng. Lại có những đoạn, bố con lão phải đánh vật cả chục lần mới xong vì cứ đào hôm trước, hôm sau đường dẫn lại bị lấp đầy đất đá bởi mưa lũ, trâu bò dẫm đạp.
Ròng rã hơn 3 năm trời, con mương dẫn nước dài 3,7 km từ đỉnh núi cao xuống ruộng nhà được hoàn thành. Cả nhà mừng rơi nước mắt. Trời không phụ lòng người, vụ lúa năm 1992, gia đình ông thắng to. Hơn 3 ha ruộng bậc thang, cấy giống lúa Nhị ưu đã cho 12 tấn lúa, hạt nào cũng mẩy căng.
Từ ấy, trung bình mỗi năm, bố con ông thu hoạch được hơn 10 tấn thóc từ ruộng lúa nước. Cuộc sống gia đình bắt đầu khấm khá lên nhưng ông lão người nhỏ thó, có đôi mắt tinh anh này chưa dừng lại. Lão xuống núi rước hẳn một chiếc máy xúc về để đào hồ nuôi cá.
Máy và người đánh vật mất cả tháng trời, bọc tiền của ông ngót mất 23 triệu đồng thì cái hồ rộng hơn 1 ha mới nên dạng nên hình để lão Lìn nuôi cá trắm, mè, trôi, chép, rô phi... Hàng trăm con gà, 16 con trâu cùng lúa và cá đã mang bộn tiền về cho gia chủ.
Rủ nhau làm giàu
Thấy nhà ông Lìn ứ kho thóc, đầy gia súc gia cầm, bà con dân bản phục lắm. Họ bảo nhau: lão Lìn giỏi quá, lão làm đúng rồi, mình phải học lão thôi. Vốn tính hào sảng, lại giàu lòng nhân ái nên ông Lìn sẵn sàng hướng dẫn kinh nghiệm làm ăn cho mọi người.
Với ba gia đình nghèo nhất bản, không chỉ cho mỗi hộ vay 10 triệu đồng, cho mượn trâu cày, ruộng cấy, ông Lìn còn tận tình đến tận nơi giúp họ làm ăn. Khi nhiều gia đình trong bản đã bước đầu thoát nghèo, năm 1995, Phàn Phù Lìn rủ rỉ với bà con đừng phá rừng thì mới giữ được nước. Rồi ông hướng dẫn, kêu gọi bà con hợp sức tìm và dẫn thêm một nguồn nước nữa về bản.
Giờ thì Phìn Ngan đã có 2 hệ thống mương dài gần 6 km dẫn nước từ đỉnh núi xuống tưới mát cho 16,8 ha ruộng bậc thang của bản. Thế là tất cả 55 hộ gia đình đều giã biệt lúa nương để chuyên canh lúa nước.
Nghe đài bảo cây thảo quả sống rất tốt dưới tán rừng già. Bùi tai quá, Phàn Phù Lìn lại đi lùng mua giống về trồng thử. Kết quả thật bất ngờ, cây thảo quả hợp đất hợp người nên phát triển rất nhanh. Chỉ trong vài năm, gia đình ông đã có 10 ha thảo quả, trung bình mỗi năm thu được 3 tấn quả.
Mỗi cân thảo quả bán được từ 90.000 - 150.000 đồng, gia đình ông thu được khoảng 270 - 450 triệu đồng/năm. Học tập ông Lìn, dân bản cũng mua thảo quả về trồng. Giờ mỗi hộ cũng có ít nhất hơn 1 ha thảo quả, thu nhập hơn chục triệu đồng mỗi năm. Cả bản Phìn Ngan hiện trồng được khoảng 80 ha thảo quả, tương đương với từng ấy diện tích rừng phòng hộ đầu nguồn được bảo vệ.
Phìn Ngan hiện có 14/55 hộ giàu, hơn 60% hộ có điện. Cả bản có tới 35 xe máy. Từ vị trí nghèo đội sổ, bản vươn lên vị trí giàu nhất xã Trịnh Tường. Thành tích ấy có công sức rất lớn của “nhạc trưởng” Phàn Phù Lìn.
Đỗ Quang Tuấn Hoàng