Kỷ niệm 35 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam-Nhật Bản (21-9-1973 – 21-9-2008). Bài 1: Câu chuyện 35 năm trước

Kỷ niệm 35 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam-Nhật Bản (21-9-1973 – 21-9-2008). Bài 1: Câu chuyện 35 năm trước

LTS: Nguyên đại sứ Võ Văn Sung là người 35 năm về trước, ngày 21-9-1973, tại Paris đã cùng Đại sứ Nhật Bản Y.Nakayama ký kết văn bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Nhật Bản. Năm 1988, đúng 15 năm sau, ông được cử làm Đại sứ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Nhật Bản cho đến năm 1992. Nhân dịp kỷ niệm 35 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản, xin trân trọng giới thiệu bài viết sau đây của nguyên Đại sứ Võ Văn Sung.

(SGGP 12G).- 35 năm qua, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đã trải qua nhiều giai đoạn và hiện nay đã đạt đến thời kỳ tốt đẹp nhất khi hai nước trở thành đối tác chiến lược của nhau về mặt kinh tế. Sau 35 năm phát triển quan hệ giữa hai nước, có những sự kiện mà dư luận đã biết nhưng cũng có những điều chưa hoặc ít được nhắc đến.

Những cuộc tiếp xúc bí mật

Kỷ niệm 35 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam-Nhật Bản (21-9-1973 – 21-9-2008). Bài 1: Câu chuyện 35 năm trước ảnh 1

Lễ ký kết quan hệ ngoại giao Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Nhật Bản tại Paris ngày 21-9-1973

Từ 1970-1973 là thời kỳ hết sức sôi động của Việt Nam, lúc đó toàn dân ta ra sức đấu tranh trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao để giành lại các quyền dân tộc cơ bản của mình. Sự kiện nổi bật nhất về mặt quốc tế là cuộc đàm phán giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hoa Kỳ tại Paris dẫn đến hiệp định chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam mà chúng ta vừa kỷ niệm 35 năm ngày ký kết (27-1-1973).

Thời kỳ này, ở Nhật Bản cũng như rất nhiều nước khác trên thế giới, đặc biệt là ở Pháp và Mỹ đã có phong trào sôi nổi đòi chấm dứt chiến tranh, đòi hòa bình cho Việt Nam.

Riêng tại Nhật Bản, ngoài phong trào đòi hòa bình ở Việt Nam còn có khá nhiều hoạt động của các tổ chức của nhân dân Nhật như Hội Hữu nghị Nhật-Việt, Hội Mậu dịch Nhật-Việt của rất nhiều nhân vật có tiếng thuộc nhiều giới khác nhau nhằm thúc đẩy những cuộc tiếp xúc, những mối quan hệ giữa Nhật Bản và nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Về phần mình, Chính phủ Nhật Bản cũng như chính phủ nhiều nước khác đã sử dụng Paris làm nơi tiếp xúc với Việt Nam dân chủ cộng hòa để cùng thiết lập quan hệ ngoại giao. Do hoàn cảnh riêng của mỗi nước, có nước tiến hành công khai, ví dụ Thụy Sĩ đã ký kết năm 1971, có nước lại xúc tiến kín đáo như Nhật Bản.

Thời kỳ này tôi công tác tại Paris, là thành viên của đoàn do anh Lê Đức Thọ thay mặt cho lãnh đạo ta đàm phán “bí mật” với ông Kissinger; đồng thời là Tổng đại diện của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sau khi ký kết Hiệp định Paris tôi trở thành đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta. Từ năm 1971 đến 1975, cơ quan Tổng đại diện và sau đó là Đại sứ quán Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Pháp đã có các đàm phán việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa với hơn 20 nước khác tại Paris gồm các nước ở cả Á, Âu, Phi, Úc và Mỹ, trong đó có Nhật Bản.

Từ giữa năm 1971, các tham tán và bí thư của cơ quan Tổng đại diện Việt Nam dân chủ cộng hòa và Đại sứ quán Nhật Bản đã có nhiều lần gặp nhau. Cuối năm 1971, Cục trưởng châu Á Bộ Ngoại giao Nhật Bản là ông Miyake từ Tokyo sang Paris gặp anh Nguyễn Tuấn Liêu, Tham tán của cơ quan Tổng đại diện Việt Nam dân chủ cộng hòa bàn việc tiếp xúc giữa Tokyo và Hà Nội. Sau đó từ đầu năm 1973 trở đi Đại sứ Nhật Bản tại Pháp là ông Y.Nakayama và tôi trực tiếp gặp nhau nhiều lần để bàn những vấn đề cụ thể còn lại cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức.

Ngày 21-9-1973 hai đoàn đã họp tại trụ sở Đại sứ quán Việt Nam dân chủ cộng hòa để ký kết. Trong đoàn Nhật Bản ngoài Đại sứ Nakayama còn có ông Miyake từ Tokyo sang và một số cán bộ khác của Đại sứ quán Nhật Bản về sau làm đại sứ ở nhiều nước khác như Đại sứ Imagawa ở Campuchia, Đại sứ Inoue ở Ga bông, Đại sứ Nakamura ở Việt Nam… Về phía ta thì ngoài tôi có các anh như Nguyễn Tuấn Liêu, về sau là Đại sứ Việt Nam tại Cộng hòa Liên bang Đức và Lưu Đình Vệ, sau này là đại sứ tại Philippines. Những cuộc gặp gỡ kéo dài đã để lại những kỷ niệm sâu sắc giữa các cán bộ đã tham gia của cả hai bên.

Đồng cảm

Phía Nhật Bản có những phát biểu chính thức thanh minh cho chính sách “theo đuôi” Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam. Tôi nói với Đại sứ Nakayama: “Nhật Bản nhất định đồng cảm với công cuộc giải phóng dân tộc và độc lập của Việt Nam, vì Nhật Bản cũng có một lịch sử bảo vệ độc lập và tự chủ đáng trọng”.

Khi đó Đại sứ Nakayama đã nói: “Việc đất nước chúng tôi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn. Tôi là một nhà ngoại giao đại diện cho chính phủ và nhiệm vụ của tôi là truyền đạt lập trường của nước mình. Thế nhưng, tôi thực sự cảm động trước những lời ngài Đại sứ vừa nói. Dù có phải rời khỏi nhiệm vụ của mình, tôi cũng xin được nói rằng tôi hoàn toàn đồng cảm với những lời ngài Đại sứ vừa nói”.

Về phần mình, tôi cảm nhận các đồng nghiệp Nhật Bản thật sự đã có cảm tình với cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Cho đến mãi về sau khi làm đại sứ Việt Nam ở Tokyo, tôi được các đồng nghiệp trên giúp đỡ rất nhiều. Ngay cả khi tôi về hưu, mỗi lần có dịp sang Việt Nam, nhiều đồng nghiệp hồi đó đã tìm thăm tôi. Đặc biệt, Đại sứ Y. Nakayama đã tự mình tổ chức rất nhiều cuộc tiếp xúc giữa tôi với các cựu thủ tướng Nhật Bản.

Nhân đây tôi cũng xin nhắc lại sự kính trọng của tôi đối với cố Thủ tướng K.Tanaka mà tôi được yết kiến ở Tokyo; vị lãnh đạo đã quyết định xúc tiến việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam dân chủ cộng hòa hơn 35 năm trước.

Đại sứ Nakayama đã hẹn cùng tôi ngày 21-9-2003 sẽ gặp nhau tại Tokyo hoặc Hà Nội nhân dịp tròn 30 năm ký kết quan hệ ngoại giao hai nước nhưng rất tiếc là tháng 7-2003 ông đã từ trần.

Từ những mối quan hệ thời đó tôi đã nhận ra rằng cách suy nghĩ về xử thế, về biểu hiện tình cảm con người giữa người Việt Nam và người Nhật Bản có những điểm giống nhau.

Võ Văn Sung
(nguyên đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản)


>> Bài 2: Thời kỳ hợp tác kinh tế mới
>> Bài 3: Những người bạn lớn

Tin cùng chuyên mục