Tại buổi họp báo mới đây, Hiệp hội Chế biến thủy sản Việt Nam cho biết, xuất khẩu cá tra, ba sa đang tăng mạnh về lượng với trên 120 thị trường, trải đều từ những quốc gia có GDP cao như Mỹ, các nước EU, Australia, Nga… đến những nước có GDP trung bình như Mexico và cả những quốc gia vùng Bắc Phi và Trung Đông thuộc nhóm nước Hồi giáo…
Hệ lụy của tự phát
Chỉ khoảng 6.000ha cá tra, cá ba sa nuôi nông dân Việt Nam đã thu về khoảng 1 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, trong khi mặt hàng tôm để thu được trên 1,5 tỷ USD kim ngạch mỗi năm phải cần đến khoảng 600.000ha mặt nước. Điều này cho thấy, giá trị mang lại từ 1ha đất nuôi cá quá sức hấp dẫn. Không chỉ diện tích nuôi cá tăng mà đối tượng nuôi cá cũng tăng nhanh trong thời gian ngắn, từ những người nuôi cá chuyên nghiệp đến người trồng lúa, người có tiền ở nơi khác và cả người… bán vàng cũng tham gia.
Hệ lụy của sự tự phát này đang để lại những hậu quả đáng tiếc. Nguồn cung dồi dào dẫn đến sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp (DN) để giành khách hàng, nhà nhập khẩu nước ngoài được dịp ép giá. Cá tra, ba sa Việt Nam bị đánh thuế do bán phá giá từ thị trường Mỹ từ việc giảm giá này. Do tỷ giá đồng EUR giảm so với USD khiến hàng thủy sản xuất khẩu vào thị trường chung này khi quy ra USD bị đẩy giá lên quá cao. Nhà nhập khẩu không chấp nhận giá cao, do vậy buộc phải giảm giá bán.
Điều đó giải thích vì sao, những tháng qua sản lượng xuất khẩu tăng, nhưng giá trị lại giảm mặc dù nhu cầu vẫn còn nhiều. Hiện nay, giá cá tra phi lê vào loại thấp, trên dưới 2USD/kg so với trên dưới 3 USD/kg như trước. Hậu quả, giá mua cá nguyên liệu ở ngưỡng 16.000 đồng/kg, người nuôi cá không thể có lời.
Giảm giá và thừa nguyên liệu liên tục mấy năm nay đẩy người nuôi vào tình trạng thua lỗ kéo dài, lượng người nuôi phá sản ngày càng nhiều. Một thực tế, nguyên liệu thừa nhưng vẫn thiếu. Do tạo ra sự cung cầu không hợp lý: Thừa cá thịt đỏ, dư cá cỡ lớn trong khi cá thịt trắng, cỡ 800g/con lại khan hiếm.
Chuỗi liên kết từ trang trại đến bàn ăn toàn cầu
Trước nguy cơ này, các nhà máy phải tự xây dựng vùng nguyên liệu từ khoảng 20%, lên 50%-60%, thậm chí có DN tự cung ứng nguyên liệu đến 90%.
Theo ông Ngô Phước Hậu, Chủ tịch HĐQT Agifish (An Giang), so với nông dân, DN có lợi thế hơn khi đầu tư vào vùng nuôi đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Do các nhà máy không thể tự tạo 100% nguồn nguyên liệu nên phải liên kết với những người nuôi có diện tích và vốn lớn. Việc liên kết trên nhằm chia sẻ rủi ro và giảm bớt phần vốn DN phải bỏ ra, tạo được chuỗi liên kết giữa các bên trong bối cảnh nguồn vốn vay ngân hàng lãi suất vẫn cao và không dễ khó vay.
Một chuỗi liên kết mới nhất hiện nay là có sự tham gia của nước ngoài. Mới đây, Mazzetta, nhà nhập khẩu, phân phối thủy sản đông lạnh hàng đầu của Mỹ, liên kết với Proconco, nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi của Pháp tại Việt Nam triển khai dự án nuôi cá tra an toàn sinh học tại An Giang với quy trình khép kín từ nguồn thức ăn, nông trại, chế biến, đến người tiêu dùng.
Theo đó, Proconco sẽ nghiên cứu để đảm bảo chất lượng nguồn thức ăn cho cá, hỗ trợ nông dân kỹ thuật nuôi và quá trình chế biến để đáp ứng tiêu chuẩn mà khách hàng thị trường Bắc Mỹ yêu cầu. Còn Mazzetta sẽ đưa sản phẩm đến người tiêu dùng. Mazzetta hy vọng sẽ nâng sản lượng mua cá mỗi tháng từ 600 tấn/tháng hiện nay lên 1.000 tấn/tháng từ năm 2011. Việc liên kết này giúp cho vùng nguyên liệu được quản lý tốt, tạo ra sản phẩm đặc trưng thương hiệu cá tra, ba sa Việt Nam, với giá bán cao (3-3,5USD/kg).
Đầu năm 2009, Binca Seafoods Vietnam, liên kết với Ntaco (Việt Nam) xây dựng vùng nuôi cá tra 35ha đạt chuẩn Global GAP. Binca Seafoods VN cũng đầu tư 2 triệu USD cho các hộ ở An Giang nuôi cá tra sinh thái, sản lượng 1.200 tấn/năm và đang liên kết với Công ty Sinabico (Năm Căn, Cà Mau) nuôi tôm sú sinh thái, khoảng 2.000 tấn/năm.
Với tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm ngày càng cao, quản lý môi trường tốt sẽ không còn cơ hội cho những thông tin sai lệch, bôi xấu như hiện nay ở một số nước về hình ảnh cá tra, ba sa Việt Nam.
CÔNG PHIÊN