Thị trường sản phẩm nông nghiệp hữu cơ (NNHC) mới được hình thành ở Việt Nam, nhưng do người dân, chủ yếu những người có thu nhập khá trở lên quan tâm đến sức khỏe nên nhu cầu tìm các sản phẩm hữu cơ trên thị trường ngày càng tăng.
Với cơ hội này, không ít cá nhân có đất đai, nguồn lực đang đầu tư phát triển sản xuất NNHC và tìm kiếm chứng nhận để có thể tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nội địa. Hệ thống phân phối sản phẩm hữu cơ trong nước chủ yếu thông qua các công ty với cửa hàng bán lẻ, có sự phối hợp chặt với người sản xuất. Các sản phẩm phải được đóng gói tại nơi sản xuất trước khi xuất hàng với đầy đủ thông tin về sản phẩm để truy xuất nguồn gốc. Nhãn sản phẩm chủ yếu được sự chứng nhận của các tổ chức trong và ngoài nước như gạo Hoa Sữa (nông trại Viễn Phú) do tổ chức Control Union - Hà Lan chứng nhận, trà hữu cơ của Công ty Ecolink được chứng nhận theo tiêu chuẩn châu Âu và Canada, hay PGS của liên nhóm nông dân Lương Sơn và Hà Nội…
Thực tế cho thấy, việc mở rộng diện tích sản xuất NNHC đúng nghĩa cần nhiều thời gian, nguồn lực, kinh phí đào tạo nông dân, tổ chức nhóm sản xuất cũng như hoàn thành các thủ tục chuyển đổi và tiếp cận thị trường như cách Công ty CPTM-SX Viễn Phú đã làm với nông trại 320ha ở U Minh Hạ (Cà Mau), sau 3 năm mới định hình và có sản phẩm hàng hóa. Trong khi không ít nơi, kể cả cửa hàng nông dân tự tổ chức sản xuất theo theo cách riêng và tự cho là trồng theo “phương pháp hữu cơ” và bày bán sản phẩm đó. Có tình trạng một số người sản xuất, bao gồm nông dân và trang trại tư nhân sử dụng cụm từ “sạch”, “hữu cơ” để giới thiệu các sản phẩm, trong khi thực tế sản xuất chủ yếu tập trung vào phương thức an toàn (GAP) hoặc chỉ cố gắng thay thế vật tư đầu vào vô cơ là các hóa chất bảo vệ thực vật bằng nguồn gốc sinh học hoặc tự nhiên, trong khi các nguyên tắc khác của NNHC thường không được chú trọng như chất lượng đất, nguồn nước... Gọi là sản phẩm NNHC phải chủ động tất cả các khâu, từ đất, nước, giống, các vật tư nông nghiệp như phân bón sử dụng phải được tổ chức uy tín công nhận. Rau mọc hoang dã chưa hội đủ điều kiện để gọi là sản phẩm hữu cơ.
90% nhà sản xuất, kinh doanh lạm dụng từ “sạch”, hữu cơ để mưu cầu thương mại, trong khi vẫn sử dụng vật tư vô cơ như thuốc diệt cỏ, phân bón vô cơ… Chúng ta đang thiếu khung pháp lý bảo vệ người tiêu dùng trước một thị trường với nhiều sản phẩm được gọi là hữu cơ, nhưng thực chất, nhiều sản phẩm được sản xuất theo cách hiểu khác nhau về NNHC của từng cơ sở. Việc hỗn loạn sản phẩm NNHC làm cho người tiêu dùng ngộ nhận, dẫn đến việc mất lòng tin với sản phẩm hữu cơ đích thực.
ĐĂNG LÃM