Ngày 1-11, Quốc hội đã dành trọn ngày tiến hành phiên giám sát tối cao, thảo luận về việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD). Kết quả giám sát cũng như ý kiến thảo luận của các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đều có chung nhận định: tái cơ cấu nền kinh tế đã đạt được một số kết quả nhưng vẫn còn chậm.
Đại biểu Thân Đức Nam (Đà Nẵng) phát biểu về tái cơ cấu kinh tế. Ảnh: Lã Anh
Mô hình tăng trưởng mới chưa rõ nét
Trình bày báo cáo giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả tái cơ cấu nền kinh tế, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu cho biết, qua hơn 3 năm thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế đã mang lại kết quả bước đầu. Cụ thể là kinh tế vĩ mô ổn định hơn, lạm phát được kiềm chế, chất lượng nền kinh tế có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP ước thực hiện bình quân 5 năm 2011 - 2015 là 5,78%, không đạt mục tiêu đề ra (6,5% - 7%). Điều này cho thấy những tồn tại, yếu kém của nền kinh tế chưa được giải quyết triệt để, mô hình tăng trưởng mới chưa định hình rõ nét. “Vấn đề đặt ra là kiểm soát lạm phát đạt ở mức thấp góp phần thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô nhưng nếu quá thấp sẽ ảnh hưởng lớn đến việc duy trì, phát triển của doanh nghiệp, việc làm và tăng trưởng kinh tế” - ông Nguyễn Văn Giàu phân tích.
Trên cơ sở kết quả giám sát, để tiếp tục nâng cao hiệu quả quá trình tái cơ cấu nền kinh tế từ nay đến hết năm 2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội kiến nghị một số vấn đề. Theo đó, cần kiên trì thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế để đến năm 2015 bảo đảm hoàn thành cơ bản cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển nhanh và bền vững, hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội. Bổ sung, hoàn thiện đề án tái cơ cấu, nhất là “lượng hóa nội dung mô hình tăng trưởng”; mô tả cụ thể các mục tiêu, lộ trình, tăng tính cạnh tranh trong kế hoạch hàng năm và 5 năm; phương thức phân bổ lại nguồn lực. Tạo chuyển biến mạnh mẽ ngay từ năm 2015 trong việc áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển đồng bộ thị trường lao động, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm; đẩy mạnh công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp phụ trợ, tăng tính liên kết vùng. Đáng chú ý, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, cần xây dựng, triển khai các đề án cụ thể và hệ thống chính sách khuyến khích thu hút đầu tư tư nhân phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội có sinh lời thay dần cho đầu tư công. Cần quy định mức tối thiểu giá trị dự án, công trình phải kêu gọi đầu tư từ thành phần ngoài nhà nước, trường hợp các nhà đầu tư ngoài nhà nước không tham gia thì mới thực hiện đầu tư công. Xây dựng đề án sử dụng nguồn vốn thu được từ quá trình cổ phần hóa DNNN đầu tư cho một số dự án, công trình cấp bách để giảm gánh nặng nợ công; tập trung nguồn vốn này đầu tư cho các bệnh viện để khắc phục cơ bản tình trạng quá tải trong vòng hai năm tới. Xử lý dứt điểm các TCTD yếu kém, tiếp tục thực hiện các giải pháp giảm nợ xấu và đến cuối năm 2015 còn dưới 3% trong tổng dư nợ. Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật đối với TCTD, giám sát chặt chẽ, thực chất sở hữu chéo, đầu tư chéo để xử lý kịp thời các vi phạm và ngăn chặn rủi ro phát sinh. Nghiên cứu dỡ bỏ trần lãi suất, trần tăng trưởng dư nợ tín dụng đối với ngân hàng thương mại mà thông qua sử dụng các công cụ gián tiếp để can thiệp phù hợp với quan hệ cung - cầu của thị trường.
Cần “bình mới, rượu mới”
Đa số ý kiến đại biểu đều có chung nhận định rằng quá trình tái cơ cấu nền kinh tế mặc dù đạt được một số kết quả nhưng vẫn còn chậm so với yêu cầu. Theo ĐB Nguyễn Thái Học (Phú Yên), chúng ta đã đi được 1/3 thời gian của quá trình tái cơ cấu, nhưng hiệu quả mang lại thế nào khó phân định vì ngay từ đầu mục tiêu đưa ra thiếu sự lượng hóa, thiếu cơ sở để xác định và ràng buộc trách nhiệm. Chính điều này dễ tạo ra tâm lý chủ quan, ỷ lại trong quá trình triển khai thực hiện đề án. Từ thực tế, ĐB Phùng Văn Hùng (Cao Bằng) cho biết: tư tưởng “tái cơ cấu là việc của trung ương” là khá phổ biến, nên tái cơ cấu ở địa phương mờ nhạt.
Thảo luận về các lĩnh vực cụ thể, ĐB Nguyễn Thị Khá (Trà Vinh) phân tích, mặc dù trong những năm qua, số lượng DNNN đã giảm mạnh từ 12.000 xuống còn hơn 1.000 nhưng việc hình thành các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước với các “công ty con, công ty cháu, chắt” đã làm tỷ trọng GDP của khu vực này vẫn ở mức cao, chiếm 32%. Một số khoản đầu tư ngoài ngành có hiệu quả thấp, thua lỗ, không bảo toàn được giá trị đầu tư ban đầu. Theo đại biểu, nguyên nhân chính của những hạn chế đó là tác động khủng hoảng kinh tế chung, trong chỉ đạo điều hành cũng chưa thực sự quyết liệt của một bộ phận người đứng đầu của các cơ quan chức năng và DNNN; chưa hiểu đúng ý nghĩa của việc cổ phần hóa và sắp xếp lại DNNN. “Để quá trình tái cơ cấu kinh tế phải thực sự hơn, phải là “bình mới, rượu mới” thì đã đến lúc cần phải mạnh dạn cắt đi “cái đuôi” của nhóm lợi ích” - đại biểu Nguyễn Thị Khá thẳng thắn kiến nghị.
Cùng quan điểm trên, ĐB Thân Đức Nam (Đà Nẵng) cũng cho rằng đối với việc tái cơ cấu các tập đoàn, tổng công ty nhà nước có thể áp dụng biện pháp thay đổi cán bộ nếu trì hoãn cổ phần hóa. Tuy vậy, ĐB Trần Hoàng Ngân (TPHCM) cho rằng cổ phần hóa không cần chạy theo số lượng. Quan trọng hơn là phải tạo ra cơ chế để việc sử dụng, quản lý tài sản, vốn của Nhà nước hiệu quả hơn.
Tháo gỡ khó khăn để xử lý nợ xấu
Kết quả tái cơ cấu hệ thống các TCTD là vấn đề được nhiều ĐBQH quan tâm tại phiên giám sát. ĐB Phùng Văn Hùng cho rằng “thành công lớn nhất là chúng ta đã đẩy lùi được nguy cơ đổ vỡ của những ngân hàng yếu kém”. Cùng quan điểm này, ĐB Nguyễn Bá Thuyền (Lâm Đồng) ghi nhận việc cơ cấu lại các TCTD yếu kém đã đạt được nhiều kết quả. Hệ thống ngân hàng vừa đảm bảo giữ an toàn, lại không giảm đầu tư, làm gián đoạn cung cấp dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế trong quá trình cơ cấu lại. Theo ĐB Trần Hoàng Ngân, với tái cơ cấu hệ thống TCTD thì mục tiêu an toàn hệ thống phải được đặt lên hàng đầu và đến nay mục tiêu này đã đạt được. “Chúng ta đã xử lý 250.000 tỷ đồng nợ xấu mà chưa phải dùng đến ngân sách, điều này cho thấy hướng đi vừa qua là đúng cần tiếp tục làm quyết liệt. Cần trao quyền hạn nhiều hơn cho VAMC, tạo cơ sở pháp lý cho thị trường mua bán nợ để xử lý nợ xấu” - ĐB Trần Hoàng Ngân đề nghị.
Phân tích cụ thể thêm, ĐB Trần Du Lịch (TPHCM) cho rằng nợ xấu là sản phẩm của thị trường, thì phải tạo thị trường để giải quyết. Hiện nay thủ tục phát mại tài sản cầm cố ở ngân hàng vô cùng phức tạp, có trường hợp 7 năm chưa bán được. Vì thế, phải tháo gỡ cơ chế để cho ngân hàng mua bán được nợ xấu, không thể để tình trạng người vay mà không hợp tác thì không phát mại được tài sản thế chấp. Cũng về vấn đề này, ĐB Nguyễn Bá Thuyền băn khoăn, chỉ với những cố gắng của ngành ngân hàng trong xử lý nợ xấu là chưa đủ, vì nợ xấu là vấn đề của nền kinh tế, đòi hỏi cần có sự tham gia hỗ trợ tích cực của các cơ quan, bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp. Trong khi đó, ĐB Trương Minh Hoàng (Cà Mau) cũng cho rằng, việc thành lập VAMC với giải pháp gần như không dùng nguồn ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu chỉ bằng một cơ chế hoạt động như vậy là chưa đủ, mà cần ban hành những quy định đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục pháp lý để xử lý tài sản bảo đảm thuận lợi, giải quyết nhanh và hiệu quả đúng pháp luật các khoản nợ đã mua.
| |
BẢO MINH
ĐBQH Đỗ Văn Đương (TPHCM): Tôi nói tiếng nói của cử tri
(SGGP).- Hôm qua 1-11, bên hành lang kỳ họp Quốc hội, ĐBQH Đỗ Văn Đương (TPHCM) đã trả lời báo chí khẳng định phát biểu của ông trước Quốc hội là tiếng nói cử tri và xuất phát từ thực tế.
Trước đó, ngày 31-10, ông Lê Thúc Anh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam, đã ký công văn số 258 gửi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng và ông Nguyễn Văn Hiện, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc hội đề nghị xem xét làm rõ nội dung phát ngôn trên báo chí và trách nhiệm trước cử tri của ông Đỗ Văn Đương. Một trong phát biểu của ông Đỗ Văn Đương bị Liên đoàn Luật sư Việt Nam phản ứng là đã quy chụp một cách thiếu căn cứ khi cho rằng “thực chất luật sư ở Việt Nam chỉ bào chữa cho những người có tiền”.
ĐBQH Đỗ Văn Đương
Công văn này khẳng định, nếu phát biểu trên là của ông Đỗ Văn Đương thì Liên đoàn Luật sư Việt Nam cho rằng, nhận định của ông Đỗ Văn Đương không chỉ là một nhận định thiếu căn cứ mà còn hoàn toàn trái với quy định của pháp luật (cụ thể là Điều 3 Luật Luật sư); không phù hợp với nguyên tắc đảm bảo quyền tự do bào chữa và nhờ người khác bào chữa là một trong những quyền cơ bản của con người được quy định trong Hiến pháp 2013; đi ngược lại chủ trương cải cách tư pháp được nêu trong Nghị quyết 49 của Đảng. Chính vì vậy, thay mặt cho 9.000 luật sư trong cả nước, Liên đoàn Luật sư Việt Nam phản đối nhận thức và quan điểm của ông Đỗ Văn Đương, đồng thời Liên đoàn Luật sư Việt Nam kiến nghị Chủ tịch Quốc hội có ý kiến chỉ đạo, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp xem xét kiểm tra và làm rõ tính xác thực của các ý kiến phát biểu của ông Đỗ Văn Đương cũng như xem xét trách nhiệm và tư cách ĐBQH, tư cách Ủy viên Ủy ban Tư pháp của ông Đỗ Văn Đương theo đúng quy định của pháp luật.
Trao đổi về công văn của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, ĐBQH Đỗ Văn Đương cho biết: “Tôi đã đọc công văn và đó là chuyện của người ta. Tôi thấy chuyện quá bình thường! Không có chuyện phải giải trình gì cả. Hiến pháp đã quy định ĐBQH phát ngôn được quyền miễn trừ trách nhiệm”. Ông Đỗ Văn Đương cũng khẳng định, điều ông nói là tiếng nói cử tri và xuất phát từ thực tế. “Tôi chưa nói chuyện đúng sai, đây là dân biểu nói tiếng nói của dân và không phải truy cứu trách nhiệm gì cả. Tôi trước sau như một chẳng có thay đổi gì, vì điều tôi nói là nói lên tiếng nói của dân” - ĐBQH Đỗ Văn Đương khẳng định. Cách phản ứng của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, theo ông Đỗ Văn Đương, sẽ tạo tiền lệ, không khí không tốt cho hoạt động tranh luận, phản biện. Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã có sự nhầm lẫn về vai trò của ông khi phát ngôn. Được biết, phía liên đoàn cũng không liên hệ gì với ông Đỗ Văn Đương sau khi ông phát biểu này trước Quốc hội.
PHAN THẢO