Dã Lan Nguyễn Đức Dụ
Những năm gần đây, ngành gia phả học phát triển không ngừng, đặc biệt là ở TPHCM. Ít ai nhớ rằng Dã Lan Nguyễn Đức Dụ là cánh chim đầu đàn, người khởi xướng việc nghiên cứu và biên khảo gia phả một cách khoa học và hệ thống ở Việt Nam từ giữa thế kỷ 20.
Tình yêu với dòng tộc, tổ tiên
Sự hưng vong của một quốc gia, một dân tộc được thể hiện trong chính sử. Còn sự thăng trầm của một dòng họ, một gia tộc thì phản ánh trong từng trang gia phả. Không phải đến bây giờ, mà từ thời Lý - Trần, việc làm gia phả đã xuất hiện ở nước ta. Trong nhiều gia đình và dòng họ đều lưu giữ các bộ gia phả, ghi chép thường xuyên phả hệ của mình qua các đời và các thời kỳ biến thiên của lịch sử.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh đất nước chiến tranh liên miên và cũng do người Việt chưa có thói quen nghiên cứu khoa học nhân văn một cách có hệ thống, cho đến cuối thế kỷ 20, việc ghi chép, điều nghiên gia phả vẫn còn mang tính tự phát ở một vài cá nhân hoặc nhóm riêng lẻ, chưa hình thành một ngành gia phả học Việt Nam thực sự. May mắn, bằng tình yêu và niềm đam mê đối với lịch sử dòng họ và dân tộc, mà bệ phóng chính là không gian văn hóa của đất Sài Gòn, cụ Dã Lan Nguyễn Đức Dụ đã tiên phong khởi xướng và dày công tìm tòi, miệt mài nghiên cứu gia phả, tạo cảm hứng cho những người đi sau.
Nhà gia phả học Dã Lan Nguyễn Đức Dụ. Ảnh: T.L
Cụ Dã Lan tên thật là Nguyễn Đức Thu, sinh năm 1919, quê làng Thượng Cốc, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Đầu thập niên 1940, Dã Lan vào Nam sinh sống bằng nhiều nghề khác nhau. Sau đó, ông làm quản thủ thư viện Đại học Kiến trúc Sài Gòn, một trong những cơ hội đưa ông đến với ngành gia phả học. Khi nghiên cứu, viết sách ông lấy bút danh Nguyễn Đức Dụ.
Một quan niệm mới mẻ
Ngược dòng thời gian, cụ Dã Lan nhận thấy lối chép sử nước ta trước đây thường rập khuôn của Trung Quốc. Ngoài hoàng tộc của các triều đại phong kiến thì sử gia cũng ít chú ý đến các dòng tộc khác, cho dù các dòng tộc ấy cũng có không ít người có đóng góp vào tiến trình lịch sử dân tộc. Đó là khoảng trống lớn về gia phả học.
Bên cạnh niềm tự hào thì bất cứ gia đình, dòng họ nào cũng có những điều tế nhị thầm kín mà họ muốn giấu không cho người ngoài biết. Khi đụng phải những khúc mắc như thế thì người nghiên cứu giải quyết ra sao? Cụ Dã Lan thổ lộ: “ Cái chính là phải kiên trì và tạo được lòng tin. Khi bắt đầu làm gia phả, tôi gặp nhiều khó khăn lắm. Cả vật chất lẫn tinh thần. Khó nhất là chuyện bất đồng ý kiến giữa hàng trăm người trong dòng tộc”.
Công trình gia phả khởi đầu của Dã Lan là Nguyễn tộc thế phả của chính dòng họ mình, sau ba năm biên soạn, dày hơn 400 trang khổ 20x27cm. Có một quan điểm đáng chú ý của cụ Dã Lan về việc dựng gia phả ngày nay là nên thêm cả “ngành ngoại”, tức cả con gái vào trong phả. Ông nói: “Người xưa không để ngành ngoại trong phả vì cho rằng “Nữ nhân ngoại tộc”. Tôi chủ trương gia phả nên có đầy đủ nam và nữ, tức cả nội lẫn ngoại. Bởi lẽ có nữ thì mới có nam”.
Dã Lan đã công bố hai công trình gây tiếng vang ở Sài Gòn trước năm 1975: Gia phả khảo luận và thực hành ấn hành năm 1969, Một lối chép gia phả thật đơn giản năm 1974. Cả hai đã được tái bản nhiều lần. Tên tuổi Dã Lan Nguyễn Đức Dụ từng được đưa vào cuốn Nhân vật Việt Nam 1973 và Who’s who in Vietnam 1974. Gần cuối thế kỷ 20, bộ Dõi tìm tông tích người xưa gồm nhiều tập, một công trình đồ sộ về phả hệ các danh nhân Việt Nam, lần lượt được Dã Lan ra mắt bạn đọc.
Hé lộ bí mật gia phả
Công trình Gia phả khảo luận và thực hành của Dã Lan hiện đã được gần 30 cơ sở văn hóa trên thế giới lưu trữ, trong đó có cả thư viện Trường Đại học Oxford của Anh quốc. Và cũng nhờ tiếng vang của công trình này, cuối tháng 7-1972, một đoàn các nhà khoa học thuộc Viện đại học Brigham Young của Hoa Kỳ và Tổ chức Gia phả học quốc tế đã đến tận nhà riêng của ông trao đổi về việc nghiên cứu gia phả.
Trong cuộc đời nghiên cứu, Dã Lan đã truy cứu tận gốc gia phả hơn 60 dòng họ nổi tiếng trong cả nước. Có những dòng họ đem lại nhiều bất ngờ thú vị, mới lạ mà sử sách chưa đề cập. Chẳng hạn như dòng họ của Hồ Quý Ly, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Phan Thanh Giản... và đặc biệt là dòng họ của Ngô Quyền.
Có một công trình mà cụ Dã Lan rất tâm huyết và chạy đua thời gian để hoàn thành là bộ Lược khảo phổ trạng các nhà văn, bắt đầu khởi động viết từ năm 1974. Nhiều bí ẩn về các nhà văn Việt Nam được ông tìm thấy. Chẳng hạn, nhà văn - nhà phê bình nổi tiếng một thời Lê Tràng Kiều là hậu duệ của tướng Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc, vì mối oán thù với thực dân Pháp về những trận đánh ở Bắc Kỳ mà sau khi ông qua đời, con cháu phải đổi thành họ Lê để tránh bị truy lùng. Trường hợp này cũng giống như con cháu Nguyễn Trãi phải thay tên đổi họ sau vụ án oan Lệ Chi Viên, hoặc họ Mạc ở Đông Triều, Hải Dương khi bị chúa Trịnh truy lùng mà về sau danh tướng Hoàng Diệu chính là hậu duệ…
Ngoài nghiên cứu gia phả, Dã Lan Nguyễn Đức Dụ còn sáng tác thơ văn, trong đó có tác phẩm Quê hương cố sự. Tuổi cao sức yếu, cụ Dã Lan đã vĩnh biệt cõi trần vào ngày 3-5-2001. Cánh chim đầu đàn gia phả học Việt Nam đã ngừng đập nhưng đường bay mà ông khai mở, tạo dựng đang được những người đi sau tiếp nối, phát triển thành ngành khoa học xã hội và nhân văn quan trọng trong đời sống văn hóa của người Việt Nam.
PHAN PHÚ YÊN