Những nghịch lý về dân số trên thế giới

Bài 1: Thừa người lớn, thiếu trẻ con
Những nghịch lý về dân số trên thế giới

Bài 1: Thừa người lớn, thiếu trẻ con

Trên thế giới, trong khi có những Chính phủ phải đưa ra nhiều biện pháp khác nhau nhằm hạn chế tỷ lệ tăng dân số thì ở nhiều quốc gia, tình trạng thiếu các thế hệ kế cận lại trở thành mối đau đầu đối với các nhà chức trách.

“Sợ” sinh nhiều con

30 tuổi, bụng đã vượt mặt, chị Sin Chi-yun người Hàn Quốc quyết định tới hiệu ảnh để chụp hình kỷ niệm. Từ mấy năm trở lại đây, chụp ảnh lúc mang bầu đã trở thành “mốt” ở Hàn Quốc. “Người già có thể không ưng khi chúng tôi làm vậy nhưng tôi thích giữ lại kỷ niệm về lần mang bầu duy nhất của mình” - chị Sin Chi-yun nói. Hai vợ chồng chị Sin Chi-yun quyết định chỉ sinh một con duy nhất để tập trung phát triển kinh tế, nuôi dạy con tốt và có nhiều thời gian hơn cho cuộc sống cá nhân của hai vợ chồng.

Ở nhiều quốc gia, số trẻ em được sinh ra hằng năm ngày càng giảm

Ở nhiều quốc gia, số trẻ em được sinh ra hằng năm ngày càng giảm

Tâm lý sinh ít con đã trở thành xu hướng chung của nhiều cặp vợ chồng Hàn Quốc. Cũng vì thế mà mỗi khi Quỹ Dân số LHQ (UNFPA) công bố báo cáo về tình hình dân số thế giới, Hàn Quốc lại bị “điểm mặt, chỉ tên” đầu tiên. Năm 2008, Hàn Quốc nằm trong số những nước có tỷ lệ sinh thấp nhất thế giới, chỉ 1,2 trẻ trên một phụ nữ, trong khi tỷ lệ trung bình của thế giới là 2,54.

Ông David Coleman, giáo sư Trường ĐH Oxford từng ví von rằng: “Hàn Quốc sẽ là quốc gia đầu tiên biến mất khỏi hành tinh!”. Còn Diễn đàn tương lai LHQ cũng cảnh báo, với tỷ lệ sinh là 1,1 (thống kê đầu năm 2006), vào năm 2302, Hàn Quốc chỉ còn 20.000 đàn ông và 30.000 phụ nữ.

Cùng mối lo dân số thấp như Hàn Quốc nhưng cái sự “ít trẻ con” ở quốc gia nhỏ bé Turkmenistan lại bắt nguồn từ nguyên nhân khác. Không mấy quốc gia mà số dân chính thức của đất nước lại được coi là một “bí mật” như ở Turkmenistan. Chính phủ Turkmenistan công bố dân số nước này là 6,8 triệu nhưng một số nguồn tin khác lại cho rằng con số thực tế chỉ là 3,7 triệu người.

Trước đây, Turkministan là một trong những nước có tỷ lệ sinh cao nhất Liên Xô. Ở nông thôn, các gia đình truyền thống có trung bình 8 con nhưng các cặp vợ chồng trẻ hiện nay chỉ tính sinh 2 con là nhiều. Một trong những nguyên nhân khiến dân số Turkmenistan giảm là sau khi nước này giành độc lập từ năm 1991, hàng trăm ngàn thanh niên rời quê hương để tìm việc làm ở nước ngoài. Bên cạnh đó, hệ thống y tế công cộng của Turkmenistan còn yếu, khiến người dân ngại sinh con vì sợ rủi ro. Ngoài ra, thất nghiệp, nghèo đói và không nhà cửa là những gánh nặng khó có thể gánh vác nên nảy sinh tâm lý “sợ” sinh nhiều con.

Tình trạng dân số già và tỷ lệ sinh giảm còn là thực tế ở nhiều nước phát triển trên thế giới như Đức, Italia, Nhật Bản... gây nhiều hậu quả nghiêm trọng, buộc chính phủ các nước phải có những giải pháp nhằm giải tỏa tâm lý ngại sinh con của các cặp vợ chồng trẻ.

Hậu quả và giải pháp

Tại Hàn Quốc, các chuyên gia cho rằng tình trạng tỷ lệ sinh giảm hiện nay là quả bom nổ chậm có thể tác động tới lượng nhân công và về lâu dài ảnh hưởng tới viễn cảnh tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc. Vào năm 2016, số lượng người ở độ tuổi lao động (15-64 tuổi) sẽ giảm, tuổi lao động trung bình sẽ tăng từ 38,7 hiện nay lên 41,8 tuổi.

Theo Viện Thống kê Hàn Quốc, vào năm 2026, số người cao tuổi sẽ chiếm 1/5 dân số. Bộ trưởng Y tế Hàn Quốc Jeon Jae-hee cảnh báo, nếu không có những giải pháp hữu hiệu, đến một lúc nào đó, chính phủ sẽ phải lựa chọn giữa khuyến khích đẻ nhiều hoặc đón nhận người nhập cư.

Chỉ cách đây vài chục năm, Chính phủ Hàn Quốc phải tiến hành các chiến dịch tuyên truyền nhằm giảm sinh với những khẩu hiệu như “Trai hay gái, 1 con là đủ !” hay “Không kế hoạch hóa gia đình sẽ dẫn tới đói nghèo”. Giờ thì nhiệm vụ của chính phủ lại là đảo ngược tình hình.

Sau khi lên cầm quyền, Tổng thống Lee Myung-bak đề ra giải pháp tạo điều kiện cho các gia đình đông con mua nhà và tài sản dễ dàng hơn. Thiện chí của chính phủ đã có nhưng dường như cách làm có vẻ chưa hiệu quả.

Năm 2008, Viện Y tế và các vấn đề xã hội Hàn Quốc (KIHASA) đã tiến hành điều tra trên tổng số 1.729 gia đình có 1 con. Kết quả: Có đến 81,6 % trả lời rằng việc sinh thêm con nữa hay không không phụ thuộc vào khoản viện trợ của chính phủ, nhất là khi khoản tiền thưởng 500.000 won khi sinh con thứ hai trở đi không thấm tháp vào đâu so với chi phí phải bỏ ra để nuôi một đứa con trong thời kỳ đắt đỏ hiện nay.

Tại Nhật Bản, các nhà phân tích dự đoán, nếu tỷ lệ sinh tiếp tục ở nhịp độ hiện tại, trong nửa thế kỷ tới, dân số Nhật sẽ còn 90 triệu (so với 123 triệu hiện nay). Thậm chí, có dự báo cho rằng đến cuối thế kỷ 21, dân số Nhật chỉ còn một nửa. Tỷ lệ sinh giảm kéo theo sự suy giảm dân số lao động, tác động tiêu cực đến nền kinh tế.

Một trong những giải pháp nhằm bù đắp số lao động mà Nhật Bản phải áp dụng là mở cửa đón lao động nước ngoài. Theo OECD, để duy trì dân số lao động ở mức hiện nay, hằng năm, Nhật sẽ phải đón khoảng 500.000 lao động nước ngoài.

Tại Turkmenistan, để khuyến khích người dân đẻ con, chính phủ nước này có kế hoạch tăng 30% trợ cấp cho những bà mẹ đẻ nhiều con và hứa chăm sóc y tế cho mọi trẻ em dưới 15 tuổi. Ngoài ra, chính phủ cũng có kế hoạch tạo điều kiện thuận lợi cho các gia đình đông con vay tín dụng và mua nhà cửa.

Còn tại Đức, để tăng tỷ lệ sinh, chính phủ cấp tiền “trợ cấp cha mẹ”, tương đương với 67% tiền lương, nhằm khuyến khích các bà mẹ trẻ tạm ngừng hoạt động nghề nghiệp trong năm đầu tiên sau khi sinh để nuôi con. Chính phủ Đức cũng đề ra kế hoạch tăng gấp 3 lần khả năng đón tiếp của các trường mẫu giáo, từ 250.000 lên 750.000 chỗ vào cuối năm 2013. Những chính sách này đã mang lại kết quả ban đầu: Trong báo cáo về gia đình năm 2009 của Đức, Bộ trưởng Gia đình nước này Ursula von der Leyen cho biết, tỷ lệ sinh ở Đức đã bắt đầu tăng, với 5.000 em bé ra đời nhiều hơn so với năm 2008.

Bài 2: Tăng dân số “làm mờ” những tiến bộ xã hội

Đúng là dân số giảm mạnh ở một số quốc gia như Đức, Italia hay Nhật Bản nhưng trên quy mô toàn cầu, dân số lại không ngừng gia tăng. Kế hoạch hóa gia đình đang là chủ đề thời sự ở nhiều nước trên thế giới.

Đông con hết... miếng ngon

Cứ mỗi khi có thêm một đứa con, khẩu phần ăn của vợ chồng nhà Bing, 34 tuổi, ở ngoại ô thành phố Manila (Philippines) lại phải chia nhỏ. Với 5 đứa con, 7 miệng ăn trong gia đình, vợ chồng nhà Bing không thể cho con cái một cuộc sống no đủ. Vợ chồng nhà Bing chỉ muốn có một con nhưng không thể vì họ không sử dụng các biện pháp tránh thai.

Trẻ em nghèo Philippines

Trẻ em nghèo Philippines

Kể từ năm 2000, thị trưởng thành phố Manila là Lito Atienza đã ra lệnh cấm sử dụng các biện pháp tránh thai ở các cơ sở y tế được thành phố trợ cấp. Người thay thế ông Lito Atienza 8 năm sau đó tiếp tục duy trì lệnh cấm này. Người dân có thể mua bao cao su ở cơ sở y tế tư nhân nhưng nghèo như gia đình nhà Bing, đó là việc nằm ngoài tầm với.

Khác với nhiều nước châu Á và các quốc gia trên thế giới, Philippines - quốc gia 90 triệu dân, đa số theo đạo Thiên Chúa - không chấp nhận các biện pháp tránh thai. Chính phủ và giới nhà thờ ủng hộ việc kế hoạch hóa gia đình theo cách “tự nhiên”. Phụ nữ phải tránh thai bằng cách chỉ quan hệ tình dục vào những ngày ít có nguy cơ nhất.

Dân số Philippines hiện tăng ở mức 2,3% một năm, khiến mức tăng sản xuất nông nghiệp và kinh tế không bù đắp kịp. Cái nghèo và kém phát triển cứ đeo đuổi những thành phần dân nghèo nhất.

Trường hợp ở Manila của Philippines là một trong những ví dụ về sự tăng dân số đang ở mức báo động trên thế giới.

Theo một báo cáo của LHQ công bố tháng 3-2009, sẽ có 7 tỷ dân sống trên trái đất năm 2012 và khoảng 9,1 tỷ người năm 2050. Các nước có tỷ lệ sinh cao nhất là các nước đang phát triển ở châu Á và châu Phi như Ấn Độ, Pakistan, Nigeria, Ethiopia, Congo, Tanzania...

Trong số các nguyên nhân dẫn tới tình trạng dân số tăng có nguyên nhân từ trình độ dân trí thấp, quan niệm “trọng nam khinh nữ” và đôi khi là chính sách khuyến khích kế hoạch hóa gia đình chưa hiệu quả của các chính phủ. Ngoài ra, một số chuyên gia cho rằng những yếu tố tôn giáo cũng ảnh hưởng tới tỷ lệ dân số tăng.

Một ví dụ là tại Ấn Độ, nơi có 82% dân số Ấn Độ theo đạo Hindu. Theo đạo Hindu, con cái phải phụng dưỡng cha mẹ và những người không có con cái sẽ có một tuổi già không hạnh phúc. Do tư tưởng này ăn sâu vào tâm thức người dân nên dù giàu hay nghèo, nhiều người vẫn có tâm lý đẻ nhiều con.

Một số tôn giáo khác ở Ấn Độ cũng ủng hộ việc sinh đẻ con cái như đạo Hồi hay đạo Phật, vốn coi việc ngừa phá thai là tội ác. Hay đạo Zoroastre, khuyến khích đẻ 10 con (đạo này cho rằng một người đàn ông phải có 10 con, giống như 10 ngón tay của 2 bàn tay; có như vậy mới có thể làm được điều gì đó trong cuộc sống).

Nỗ lực giảm tăng dân số

Dân số gia tăng ảnh hưởng tới nhiều khía cạnh của đời sống con người. Theo các chuyên gia, sự gia tăng dân số đi liền với giảm sản lượng nông nghiệp tính theo đầu người, kết quả là thế giới có nguy cơ phải đối mặt với cuộc khủng hoảng lương thực.

Trên thế giới, hiện có gần 1 tỷ người không được cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng và khoảng 400 triệu người thường xuyên bị thiếu ăn. Vào thời điểm lẽ ra con người phải sản xuất nhiều lương thực hơn thì sự xuống cấp của đất đai, việc sử dụng không hợp lý sản phẩm hóa học khiến sản lượng nông nghiệp giảm mạnh, không đủ đáp ứng nhu cầu của dân số vốn ngày càng đông.

Dân số tăng, ngày càng có nhiều quốc gia phải đối mặt với tình trạng thiếu nước. Trên thế giới, 2 khu vực chịu tình trạng thiếu nước là châu Phi và Trung Đông. Đáng lo ngại vì đây cũng là những khu vực có tỷ lệ tăng dân số cao của thế giới. Khi một quốc gia thiếu nước, sản xuất lương thực sẽ bị ảnh hưởng, phát triển kinh tế bị đình trệ và môi trường sống bị phá vỡ.

Theo Cơ quan Tình báo Mỹ (CIA), tăng trưởng dân số còn kéo theo tình trạng di cư (hợp pháp và phi pháp) trên thế giới. Người dân từ nước nghèo di cư vì muốn tìm việc làm, vì lý do an ninh hay chính trị. Các nước đón nhận người nhập cư có thể tận dụng lợi ích từ người lao động trẻ, nhất là trong bối cảnh dân số trong nước già đi, song cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề trong quá trình hội nhập xã hội cho người nhập cư.

Để giảm đà tăng dân số, các nước trên thế giới đã áp dụng nhiều giải pháp. Từ 30 năm qua, các chương trình kế hoạch hóa gia đình đã góp phần đáng kể vào việc giảm tỷ lệ sinh trên toàn thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, nhiều cuộc điều tra cho thấy vẫn có ít nhất 100 triệu phụ nữ muốn tránh thai nhưng không sử dụng các biện pháp tránh thai. Đáp ứng nhu cầu này sẽ giúp giảm 1/3 tỷ lệ tăng dân số ở các nước đang phát triển.

Nhiều quốc gia trên thế giới đã thấy được hậu quả của tăng dân số và tìm kiếm giải pháp. Tại Ai Cập, quốc gia có đa số là người Hồi giáo, cứ 23 giây lại có một em bé ra đời. Tỷ lệ tăng dân số cao làm mờ đi những tiến bộ về tăng trưởng kinh tế (7%) và khiến tình trạng nghèo đói gia tăng. Tổng thống Ai Cập Mubarak đã phải kêu gọi sự tham gia của các lực lượng tôn giáo và các cơ quan hữu quan vào cuộc nhằm giảm xu hướng tăng dân số.

Ở Philippines, không hài lòng với tình trạng cấm đoán việc sử dụng biện pháp tránh thai, nhiều đại biểu Quốc hội đã đệ trình dự thảo luật cho phép chính phủ cấp tiền cho các chương trình phòng tránh thai. Các nghị sĩ giải thích rằng dự luật này không đi ngược lại các điều luật tôn giáo mà chỉ bảo vệ quyền lợi, sức khỏe và sự phát triển bền vững của con người.

Bài 3: Nạn bắt cóc bé trai ở Trung Quốc

Để giảm tỷ lệ tăng dân số, từ những năm 1970, Chính phủ Trung Quốc đã áp dụng chính sách một con. Nhưng ở xã hội “trọng nam” như Trung Quốc, chính sách này đã gây ra một số tác động tiêu cực, trong đó có nạn bắt cóc trẻ con.

Nguồn gốc chính sách một con

Vào năm 1970, dân số Trung Quốc ở mức 800 triệu người, so với 500 triệu năm 1949. Những thời điểm dân số tăng mạnh, mức tăng dân số hằng năm của Trung Quốc là 22,57 triệu người, trung bình 60.000 trẻ ra đời mỗi ngày, tương đương 43 trẻ mỗi phút. Các chuyên gia dân số khi đó cho rằng với tốc độ tăng trưởng như vậy, dân số Trung Quốc có thể tăng gấp 5 lần vào năm 2050. Đến năm 1980, dân số Trung Quốc đạt 1 tỷ người và Trung Quốc phải đối mặt với tình trạng thiếu lương thực. Để cải thiện đời sống, không có giải pháp nào khác ngoài giảm đà tăng dân số.

Các bé trai là đối tượng dễ bị bắt cóc (ảnh có tính minh họa).

Các bé trai là đối tượng dễ bị bắt cóc (ảnh có tính minh họa).

Đầu những năm 1980, chính sách kế hoạch hóa gia đình của Trung Quốc đã giúp giảm đáng kể đà tăng dân số. Bên cạnh đó, việc hạn chế sinh đẻ cũng tác động tích cực tới phụ nữ Trung Quốc. Ngày càng có nhiều phụ nữ Trung Quốc rời xa mô hình đẻ nhiều con của thế hệ trước. Chính sách này cũng kéo dài tuổi lập gia đình của phụ nữ và cho phép họ có nhiều thời gian hơn cho học hành và công tác trước khi có con đầu tiên. Nói một cách khách quan, chính sách kế hoạch hóa gia đình đã cải thiện vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội.

Tuy nhiên, sau nhiều năm áp dụng, tỷ lệ sinh ở Trung Quốc đã giảm xuống còn 1,22 (theo tổng điều tra năm 2000). Tỷ lệ này không đảm bảo mức sinh thay thế, buộc một số địa phương phải xem xét lại chính sách này theo hướng giảm nhẹ hơn. Bên cạnh đó, việc hạn chế sinh đẻ làm nảy sinh nhu cầu đẻ con trai, khiến nhiều gia đình tìm cách lựa chọn giới tính của trẻ. Kết quả là tỷ lệ giữa nam và nữ ở Trung Quốc đang chênh lệch theo hướng nam nhiều hơn nữ, gây ra sự mất cân bằng trong xã hội.

Nạn bắt cóc con trai

Theo tờ New York Times, bọn bắt cóc trẻ con ở Trung Quốc thường hoạt động vào lúc nhá nhem tối, khi trẻ đang chơi bên ngoài, còn cha mẹ chúng sao nhãng sau một ngày làm việc mệt nhọc. Deng Huidong mất con trai 9 tháng tuổi chỉ trong nháy mắt, sau khi một người đàn ông giật mạnh đứa trẻ khỏi tay người chị gái 7 tuổi ở ngay cổng nhà. Chiếc ô tô thậm chí còn không thèm dừng, chỉ có đôi bàn tay thò ra khỏi cửa sổ xe và giật đứa bé mang đi. Hàng ngàn đứa trẻ khác cũng bị bắt cóc mà cha mẹ chúng và cảnh sát đã không tìm được tung tích. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn là: Người ta biết rằng những đứa trẻ không được mang đi đâu đó quá xa. Đúng là có một số bé được bán sang Singapore hay Malaysia nhưng đa phần được bán ngay ở Trung Quốc cho những gia đình không có con trai “nối dõi tông đường”.

Nhu cầu bé trai đặc biệt lớn ở các vùng nông thôn phía Nam Trung Quốc, nơi mà tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn còn đè nặng và chính sách kế hoạch hóa gia đình chặt chẽ của chính quyền khiến việc buôn bán trẻ em ăn cắp trở thành một ngành kinh doanh phát đạt.

Su Qingcai, một nông dân trồng chè ở vùng núi tỉnh Fujian, 38 tuổi, đã có con gái 14 tuổi nhưng không có con trai. Không phải ngẫu nhiên mà ông Su Qingcai lại chịu bỏ khoản tiền kếch sù đối với một nông dân (3.500 USD) để đưa về nhà mình một bé trai 5 tuổi: “Con gái thì không tốt bằng con trai. Quan trọng không phải là ta có bao tiền trong nhà. Nếu không có con trai, ta cũng không tốt bằng những người khác cho dù họ chỉ có một con trai” - ông Su nói. Truyền thống lâu đời của Trung Quốc là “trọng nam khinh nữ”. Mong muốn có con trai lại được củng cố trong thời hiện đại, bởi nhiều bậc cha mẹ ở nông thôn lo ngại sẽ phải tự lo liệu khi về già nếu không có con trai giúp đỡ.

Biện pháp của chính quyền

Chính phủ Trung Quốc cho rằng mỗi năm có khoảng 2.500 vụ buôn bán người, bao gồm cả nam lẫn nữ. Tuy nhiên, một số người cho rằng, con số này có thể lên tới hàng trăm ngàn. Sun Haiyang, một người có con bị bắt cóc năm 2007, đã lên danh sách 2.000 trẻ em ở xung quanh vùng Shenzhen bị mất tích trong 2 năm qua. Sun Haiyang cho biết không một đứa trẻ nào trong danh sách này được tìm thấy. Việc tìm trẻ em bị bắt cóc ở Trung Quốc khó như “tìm kim đáy bể” vậy!

Còn theo ông Peng, người đứng đầu một nhóm những cha mẹ có con bị bắt cóc, những bé gái bị bắt cóc thường được bán cho các trại trẻ mồ côi. Những trẻ may mắn sẽ được nhận nuôi ở Mỹ hoặc châu Âu với khoản phí 5.000 USD. Còn những trẻ kém may mắn hơn, thường là những trẻ đã lớn tuổi, có thể bị ép làm gái mại dâm hoặc phải lao động cực nhọc.

Để chống lại nạn bắt cóc trẻ con, Bộ Công an Trung Quốc thông báo thành lập một cơ sở dữ liệu gien ADN. Cơ sở dữ liệu này bao gồm các mẫu ADN của cha mẹ những đứa trẻ có con bị bắt cóc và mẫu ADN của những đứa trẻ bị nghi là đã bị bắt cóc, hoặc của những đứa trẻ bụi đời có lai lịch không rõ ràng. Từ tháng 5-2009, 236 văn phòng sẵn sàng chia sẻ thông tin về ADN, phục vụ việc cuộc chiến chống nạn bắt cóc và buôn bán trẻ em.

Hằng năm, các gia đình ở nông thôn được nhận một khoản tiền thưởng nếu đẻ một con duy nhất (trước đây là 600 NDT, sau tăng lên thành 720 NDT). Đây là khoản tiền dành cho những người trên 60 tuổi chỉ có 1 con trai hoặc 2 con gái. Khoản tiền này nhằm khuyến khích các gia đình đẻ ít con. Sở dĩ có chính sách này là vì người dân nông thôn Trung Quốc không được hưởng hệ thống lương hưu, nên thường có tâm lý muốn đẻ con trai để có thể trông cậy lúc về già. 5,75 triệu người được hưởng loại tiền thưởng này năm 2008.

Hà Vy (tổng hợp)
(SGGP 12G)

Tin cùng chuyên mục