Bệnh sốt mò do tác nhân Orientia tsutsugamushi, có ổ dịch thiên nhiên, truyền ngẫu nhiên sang người khi bị ấu trùng mò đốt. Bệnh lưu hành chủ yếu ở châu Á và Tây Thái Bình Dương.
Bệnh xuất hiện ở Việt Nam quanh năm nhưng chủ yếu về mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, đỉnh cao vào những tháng 6 - 7. Bệnh thường tản phát nhưng dịch có thể bùng phát khi có nhiều người chưa miễn dịch vào đúng giữa một ổ dịch (dân đi khai hoang, bộ đội hành quân tập luyện dã ngoại). Bệnh gặp chủ yếu ở vùng nông thôn rừng núi (80,5%), hiếm ở thành thị. Mọi lứa tuổi đều có thể cảm nhiễm bệnh nhưng chủ yếu bệnh phân bố ở lứa tuổi lao động, tính chất nghề nghiệp, lâm nghiệp, nông nghiệp, bộ đội.
Nguồn truyền nhiễm có 2 ổ chứa trong thiên nhiên là mò và gặm nhấm - thú nhỏ. Ổ chứa nguồn truyền nhiễm chủ yếu là mò nhiễm R.orientalis: mò có khả năng truyền mầm bệnh cho các loài gặm nhấm và thú nhỏ, truyền dọc mầm bệnh qua trứng sang đời sau; truyền ngẫu nhiên mầm bệnh sang người. Ổ chứa thứ yếu có vai trò nguồn truyền nhiễm không đáng kể là gặm nhấm - thú nhỏ: khả năng nhiễm mầm bệnh từ gặm nhấm/thú nhỏ vào ấu trùng mò thường thấp, mầm bệnh nhiễm vào thường không nhân lên được mò và sau đó không được truyền sang người hoặc thú nhỏ khác vì ấu trùng mò chỉ đốt hút máu 1 lần trong đời… Những loài gặm nhấm - thú nhỏ là ổ chứa mầm bệnh thứ yếu: chuột, sóc, chồn, nhím, cầy, cáo, thỏ, chim; một số gia súc (gà, chó, heo...).
Đường truyền bệnh sốt mò là bệnh truyền sang người qua côn trùng trung gian ấu trùng mò; như vậy mò vừa là vật chủ vừa là véctơ truyền bệnh; người nhiễm bệnh khi bị ấu trùng mò đốt. Người bệnh không có khả năng truyền bệnh sang người khác.
Triệu chứng lâm sàng là thời kỳ ủ bệnh, trung bình 8 - 12 ngày. Khởi phát lúc đầu tại nơi ấu trùng mò đốt có một nốt phỏng nước bằng hạt đỗ, không đau, bệnh nhân thường không chú ý. Thời kỳ toàn phát: Sốt ≥ 38 - 40°C, liên tục, kéo dài 15 - 20 ngày, thậm chí tới 27 ngày nếu không điều trị; có khi rét run 1 - 2 ngày đầu kèm theo sốt thường gây nhức đầu nặng, đau mỏi cơ. Nốt loét đặc trưng (điển hình của sốt mò) thường ở vùng da mềm, ẩm, như bộ phận sinh dục, vùng hạ nang, hậu môn, bẹn, nách, cổ… đôi khi ở vị trí bất ngờ trong vành tai rốn, mi mắt (dễ nhầm với lẹo mắt). Đặc điểm của nốt loét thường không đau, không ngứa. Người bệnh thường chỉ có một nốt, hiếm có 2 - 3 nốt; hình tròn/bầu dục, đường kính 1mm đến 2cm. Nốt phỏng ban đầu phát triển dần thành dịch đục trên một nền sẩn đỏ, sau 4 - 5 ngày vỡ ra thành một nốt có vẩy nâu nhạt hoặc sẫm tùy vào vùng da mềm hay cứng và độ non hay già của nốt loét. Sau một thời gian, vẩy bong để lộ nốt loét đáy nông, hồng nhạt, không mủ, không tiết dịch, bờ viền hồng đỏ hoặc thâm tùy theo bệnh đang phát triển hay đã lui. Từ khi hết sốt, nốt loét liền dần. Nốt loét gặp ở 65% - 80% các trường hợp.
Hạch khu vực nốt loét thường hơi sưng và đau, không đỏ, vẫn di động, xuất hiện cùng với sốt hoặc sau 2 - 3 ngày, là chỉ điểm tìm nốt loét. Hạch toàn thân sưng đau nhẹ hơn, trừ những ca nặng. Ban dát sẩn mọc cuối tuần thứ nhất, đầu tuần thứ hai, mọc khắp người, trừ lòng bàn tay bàn chân, tồn tại vài giờ đến 1 tuần, thưa hơn so với sốt Dengue cổ điển, khoảng 35% - 70% số bệnh nhân xuất hiện ban, tùy thời điểm bệnh nhân được khám; đôi khi có đốm xuất huyết (dưới 10%). Trong mấy ngày đầu, da và niêm mạc sung huyết ở đa số các trường hợp (khoảng 88%). Ở bệnh nhân nặng hay gặp tiếng tim mờ, huyết áp thấp, mạch chậm so với nhiệt độ, chảy máu cam, viêm phế quản, viêm phổi không điển hình...
Để phòng bệnh, tránh ngồi, nằm, phơi quần áo, đặt balô trên bãi cỏ, gần bờ bụi, gốc cây. Khi phát nương làm rẫy, hành quân dã ngoại, trinh sát vào rừng cần mang giày và tất, chít ống quần; diệt mò ở môi trường: phun tồn lưu vào đất ẩm, bờ bụi cây cỏ cao dưới 20cm quanh nhà nơi râm mát thuốc diazinon, fenthion...; diệt chuột theo mùa, chú ý rắc thuốc diệt mò trước; phát quang bụi rậm xung quanh nhà chọn lọc các đám thực vật có nhiều ấu trùng mò (ổ mò).
BS LAN PHƯƠNG