“Từ điển Từ ngữ Nam bộ”

Thật đáng nể mặt!

Độc đáo và... liều mạng từ ý tưởng!
Thật đáng nể mặt!

Nhà văn Sơn Nam đã thốt lên như vậy khi đọc “Từ điển Từ ngữ Nam bộ” (NXB Khoa học Xã hội – 2007) của Tiến sĩ Huỳnh Công Tín. Có lẽ đó cũng là nhận xét chung của nhiều người khi đọc cuốn sách này.

Độc đáo và... liều mạng từ ý tưởng!

Thật đáng nể mặt! ảnh 1

Tiến sĩ Huỳnh Công Tín đến thăm và tặng sách cho nhà văn Sơn Nam.

Tôi biết TS Huỳnh Công Tín ôm ấp ý tưởng làm cuốn Từ điển Từ ngữ Nam bộ (TNNB) này từ rất lâu. Đó là một ý tưởng độc đáo nhưng... “liều mạng”.

“Độc đáo” vì lời ăn tiếng nói của người Nam bộ từ cuộc đời thực bước vào văn chương thì nhiều, nhưng tổng hợp từ ngữ Nam bộ thành một công trình khoa học chuyên biệt như một cuốn từ điển thì hầu như chưa có để tham chiếu, rút kinh nghiệm. Nhà văn Sơn Nam đã rất công minh khi viết:

“Từ lâu rồi tôi đã muốn làm một cuốn từ điển như thế và được đọc: Đại Nam Quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, Việt ngữ chánh tả tự vị của Lê Ngọc Trụ và một quyển là của Vương Hồng Sển.

Là kẻ hậu sanh, tôi cho rằng các vị này có công lớn nhưng chưa làm được như ý muốn vì đất nước chưa thống nhất như mấy mươi năm qua. Việc làm gian nan của các cụ lão thành phần lớn là do “có chí lớn”, ghi chép cẩn thận trong sổ tay...”.

“Liều mạng” vì do hoàn cảnh lịch sử khẩn hoang, mở cõi hình thành vùng đất phương Nam, quy tụ hàng triệu lưu dân, hào kiệt cả nước như trăm sông đổ về biển lớn, kết hợp với người bản địa trải suốt hơn 300 năm... đã khiến không có miền nào mà từ ngữ lại đa dạng sắc màu, phong phú, biểu cảm cho bằng Nam bộ! Chỉ chuyện “nước lên, nước xuống” thôi mà đã: nước lớn, nước ròng, nước rong, nước kém, nước đứng, nước nhửng, nước ương, nước đổ, nước ngập, nước nổi, nước quay, nước lụt, nước lũ, nước giựt, nước rút, nước nhảy, nước trôi, nước bò...Một chuyện nước xuống thôi mà có: nước ròng sát, nước ròng cạn, nước ròng rặc, nước ròng kiệt. Trong vô số loại bờ bao lại có “bờ bao cơm nếp”. Cả nước có 42.000 km đường thủy thì đồng bằng sông Cửu Long chiếm trên 28.500 km đường thủy tàu 5 tấn đi lại được. Tên chỉ phương tiện thủy của Nam bộ có thể nói là đa dạng nhất hành tinh: bắc, ghe, xuồng, vỏ lãi, tắc rán, trẹt, ghe bầu, ghe be, ghe chài, ghe cui, ghe cửa, ghe giàn, ghe lồng, ghe lườn, ghe ngo...”Lội” là “bơi” đành một lẽ, đi trên đường người Nam bộ vẫn nói là “lội bộ”. Hạt của cây lúa thì gọi hạt lúa (hổng chịu “thóc” đâu!). Vải dệt bằng sợi cây đay, dùng may bao bố và quần bố cho người cùng khổ thời Pháp thuộc, người Nam bộ gọi luôn cây đay là cây bố. Người Nam bộ gọi cái cân tay là “cái ký”, 1kg = 1.000g còn 1 cân = 600g. 50g gọi là “1 khía”, từ đó mới có câu đố mẹo: “một cân ba khía có mấy khía?” (nếu hiểu “ba khía” là con ba khía thì câu trả lời là “12 khía”, nhưng hiểu thuần túy trọng lượng thì “một cân thêm ba khía nữa là 15 khía). Các loại hải sản khô đều để từ khô đi trước: khô cá lóc, khô cá khoai, khô cá sặc... nhưng riêng với con tôm thì phải là “tôm khô”! v.v... Quá ư là phong phú, phức tạp! Tập hợp sao nổi vốn từ ngữ “minh mông”; giải thích, dẫn liệu sao “đắt” để người Nam bộ “chịu”, thiệt là khó “trần ai khoai củ”! Không liều mạng – thực ra là “có gan” - thì không dám làm!

Sách từ điển sao đọc hấp dẫn quá!

Cuốn sách đã hoàn thành. Sách 1.392 trang, chưa thể tập hợp đầy đủ từ ngữ Nam bộ nhưng thật sự là một công trình khoa học “thật đáng nể mặt”.

Tác giả đặt mình vào tư thế người đọc của ba miền, nên vừa giải thích ngữ nghĩa vừa nêu dẫn liệu từ lời ăn tiếng nói người Nam bộ trong cuộc sống, trong tác phẩm văn học của các nhà biên khảo, nhà văn – nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Tịnh Của, Hồ Biểu Chánh, Vương Hồng Sển, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Phi Vân, An Chi, Trang Thế Hy, Chim Trắng, Lê Chí... và những cây viết Nam bộ đương đại. Tác giả sử dụng hệ thống ký hiệu phiên âm quốc tế để phiên âm theo 2 cách phát âm: 1. Phát âm của người Hà Nội, 2. Phát âm của người Nam bộ. Đây là một nỗ lực hết sức tâm huyết! Trong Từ điển TNNB, chúng ta sẽ tìm được lớp TNNB chính gốc, lớp TNNB có nguồn gốc từ các phương ngữ Trung bộ, lớp TNNB có gốc từ ngữ toàn dân... Chính vì vậy mà đọc Từ điển TNNB chúng ta thấy lòng bồi hồi xúc động. Đối diện với chúng ta không còn là những con chữ chiu chít nữa mà còn là dòng chảy tâm hồn sâu lắng trên từng hạt đất phương Nam Tổ quốc, nơi lưu dấu công ơn khẩn hoang, mở đất đầy máu và nước mắt của tiền nhân!

Hai cô bạn của tôi- thích đọc báo hơn sách vì “thời gian ngắn, đọc ngắn!” – đã trợn mắt khi tôi đưa cuốn Từ điển TNNB mới ra lò. Một cô ngành tài chính ré lên: “Em thích những con số. Chữ rắc rối nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa tam bà đát... Chết cửa tử luôn! Sách dày cụi vầy đọc chắc già háp!”; một cô là luật sư thì rành rọt: “Liếc sơ là biết sách quý, nhưng mình là dân Nam bộ y nguy. Cổ ngữ Nam bộ có thể hổng hiểu, chớ lời ăn tiếng nói Nam bộ hàng ngày thấm vào máu. Phải người miền Trung, miền Bắc chụp được sách này đọc là liền tì, liệt địa!”. Tôi cười: “Nếu các bạn giải nghĩa suôn sẻ được những từ ngữ Nam bộ vừa nói: “chết cửa tử”, “tam bà đát”, “dày cụi”, “già háp”, “y nguy”, “liền tì”, “liệt địa” thì tôi bao ăn sáng một năm!”. “Duyệt” – họ ồ lên rất tự tin. Và họ bắt đầu giải thích...lòng vòng. Đúng là hiểu, nhưng sao diễn đạt đúng và...suôn sẻ khó thế! Ánh mắt hai chị mất dần tự tin, họ cười...gãi đầu. Tôi mở đường: “Thử coi ông Huỳnh Công Tín nói sao há?”. “Đồng ý!”, cả hai reo lên háo hức. Họ dò tìm trong từ mục và cười rung người vì những từ mình vẫn nói hồn nhiên bây giờ mới rõ nghĩa của nó, bèn tấm tắc: “Ờ, hay thiệt!”, “Hay tàn canh!”, “À há, từ điển dày cụi mà sao đọc thấy hấp dẫn hơn tiểu thuyết!”.

Tôi nghĩ đó là những lời khen mộc mạc, chân tình. Nhưng, như đã đề cập: từ ngữ Nam bộ “minh mông”. Và TS Huỳnh Công Tín rất nóng lòng nhận được những góp ý nhận xét, thậm chí phê bình “gắt củ kiệu” của độc giả theo E-mail: hctin@ctu.edu.vn, ĐTDĐ: 0918.445.134

Nguyễn Thị Kỳ

Tin cùng chuyên mục