
Hiện nay nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nước ta ngày càng tăng. Riêng năm 2007 có thể đạt mức 13 tỷ USD và dự kiến năm 2008 thu hút 14,5 tỷ USD. Tuy nhiên, FDI mới chỉ tập trung vào công nghiệp và dịch vụ, lĩnh vực nông nghiệp vẫn chưa hấp dẫn các nhà đầu tư.
Thừa tiềm năng, thiếu hấp dẫn

Chế biến chôm chôm đóng hộp xuất khẩu ở Công ty Thực phẩm xuất khẩu Tân Bình. Ảnh: Đức Thành
Theo Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát, trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO, tăng cường thu hút FDI rất cần thiết cho mục tiêu tạo dựng một nền nông nghiệp hàng hóa mạnh, hiệu quả cao trên cơ sở áp dụng công nghệ tiên tiến để làm ra các sản phẩm có khả năng cạnh tranh.
Điều này ai cũng thấy được, tuy nhiên đến nay ta vẫn chưa tạo dựng được cơ chế, các điều kiện cần thiết để thu hút vốn FDI vào ngành nông nghiệp. Trong 8 tháng đầu năm, Việt Nam đã thu hút thêm 8,3 tỷ USD vốn FDI nhưng phần lớn tập trung vào lĩnh vực công nghiệp với 533 dự án, dịch vụ với 241 dự án, trong khi ngành nông nghiệp chỉ có vẻn vẹn… 40 dự án.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ KH-ĐT), tính đến nay ta mới thu hút khoảng 885 dự án với tổng vốn 4,1 tỷ USD (khoảng 6% tổng vốn FDI tại Việt Nam) đầu tư vào nông nghiệp. Trong số đó, chỉ có 1,9 tỷ USD được giải ngân. Bà Trần Thị Thu, Phó Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, cho rằng tỷ lệ 6% vốn FDI vào nông nghiệp là “thấp và thiếu ổn định”. Đó là chưa kể đến cơ cấu FDI vào nông nghiệp theo vùng miền cũng có vấn đề. Hiện nay, FDI chủ yếu tập trung vào vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc, các tỉnh vùng sâu, vùng xa tỉ trọng rất thấp. Các dự án FDI chưa khai thác tiềm năng, lợi thế của các vùng; chưa có dự án đầu tư vào khoa học - công nghệ cao. Một số dự án trồng rừng nguyên liệu, chế biến nông sản đạt hiệu quả thấp. Trong khi đó lại có khá nhiều dự án tác động nghiêm trọng đến cảnh quan, môi trường tự nhiên...
Chưa có chiến lược
Lý giải về tỷ lệ FDI quá thấp trong ngành nông nghiệp, ông Trần Văn Công, chuyên viên Vụ Hợp tác Quốc tế (Bộ NN-PTNT), cho rằng sự yếu kém trong hệ thống quản lý của ngành nông nghiệp là nguyên nhân đầu tiên. Cụ thể ngành chưa có chiến lược, cơ chế, đề xuất các dự án và cũng chưa theo dõi sát sao để giúp đỡ, giải quyết kịp thời những vướng mắc trong quá trình xúc tiến và thực hiện các dự án FDI. Bên cạnh đó, năng lực sản xuất của người dân ở các địa phương còn thấp, tính rủi ro trong sản xuất còn cao và cơ sở hạ tầng, trình độ lao động ở nông thôn chưa đủ hấp dẫn các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này. Trong khi đó, đối với các nhà đầu tư nước ngoài, vấn đề chất lượng sản phẩm và thị trường lại là yếu tố tiên quyết để đưa ra quyết định đầu tư.
Một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng, là chính sách chung chưa thực sự ưu đãi cho các nhà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Vấn đề tích tụ ruộng đất để có vùng sản xuất lớn là yếu tố quyết định để thu hút FDI nhưng rất khó thực hiện. Các tỉnh thu hút mạnh FDI thường chỉ chú trọng đến các lĩnh vực dễ “ăn” như công nghiệp và dịch vụ và thường bỏ qua lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp vốn là tiềm năng của nhiều địa phương. Tỉ lệ bảo hộ thực tế đối với nông sản lại quá thấp (dưới 3%) so với hàng công nghiệp (có khi lên tới trên 200%). Hệ thống bảo hiểm nông nghiệp hầu như không hoạt động khiến nhà đầu tư ngần ngại khi đổ tiền vào lĩnh vực vốn nhạy cảm và nhiều rủi ro này.
Xác định lĩnh vực ưu tiên
Xem ra mục tiêu thu hút 1,5 tỷ USD vốn FDI cho ngành nông nghiệp trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 khó đạt nếu không sớm tìm ra những giải pháp kịp thời. Theo ông Lê Hồng Thái, Vụ trưởng Vụ Kinh tế Nông nghiệp (Bộ KH-ĐT), để đạt được mục tiêu này, ngoài việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực, cần xác định lĩnh vực ưu tiên thu hút vốn FDI. Từ thực tế giải quyết những vướng mắc về đất đai cho các nhà đầu tư, bà Phạm Thị Thịnh, Vụ Đăng ký và Thống kê đất đai (Bộ TN-MT), cho rằng hiện nay các nhà đầu tư mong muốn 3 vấn đề. Đó là được nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất từ các tập thể, cá nhân; doanh nghiệp FDI được thuê đất của hộ gia đình, cá nhân; mở rộng hơn quyền thế chấp và quyền sử dụng đất cho các đối tác có vốn FDI. Còn ông Phan Huy Thông, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), đề xuất chính sách hỗ trợ rủi ro đối với sản xuất nông nghiệp và hàng nông sản xuất khẩu.
Giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010, kế hoạch huy động vốn đầu tư phát triển của ngành NN-PTNT là 144.790 tỷ đồng. Trong đó, nguồn vốn FDI chiếm khoảng 11%. Để thực hiện mục tiêu này, Bộ NN-PTNT đã đề ra nhiều giải pháp, trong đó sẽ lập hệ thống quản lý và xúc tiến FDI, bao gồm hình thành cơ chế, đề xuất, phê duyệt, các tiêu chí xếp hạng ưu tiên các dự án; xác định mức độ phân cấp, phân quyền trong ngành về quản lý; tăng cường thông tin đối ngoại. Trước việc “tụt hậu” trong thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp, đã đến lúc cần tăng cường năng lực phân tích và tiếp thị, phát triển sản phẩm, thương hiệu nông sản Việt Nam bằng việc đẩy mạnh xúc tiến thương mại. Cần đề ra các chế độ ưu đãi đầu tư trong nông nghiệp, thể hiện bằng các chính sách, các biện pháp bảo hộ khả thi đối với nông - lâm sản và các ngành nghề kinh tế ở nông thôn phù hợp với bối cảnh và lộ trình hội nhập.
Danh mục ưu đãi mới thu hút FDI cho nông nghiệp * Lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư: trồng và chăm sóc rừng, nuôi trồng cây con trên đất hoang hóa, vùng chưa khai thác; đánh bắt hải sản xa bờ; nhân giống mới có hiệu quả kinh tế cao; sản xuất tinh chế muối. * Lĩnh vực ưu đãi: sản xuất thuốc phòng, trừ sâu bệnh cho cây trồng vật nuôi; sản xuất máy, thiết bị, phụ tùng máy sản xuất, chế biến nông, lâm, ngư nghiệp, lương thực, thực phẩm; trồng cây dược liệu; bảo quản nông sản sau thu hoạch, bảo quản thực phẩm; sản xuất nước hoa quả đóng chai, hộp; tinh chế thức ăn gia súc, gia cầm, thủy sản; dịch vụ kỹ thuật nông, lâm, thủy sản, xây dựng và phát triển ngành nghề truyền thống; sản xuất giấy, bìa, ván nhân tạo trực tiếp từ nguồn nguyên liệu trong nước. |
Bảo Minh