
Theo quy định của pháp luật, bước đầu tiên trong quy trình giải quyết tranh chấp, khiếu nại của người dân được thực hiện là công tác hòa giải ở cơ sở. Thế nhưng, số vụ việc được hòa giải thành ở cơ sở hiện chiếm tỷ lệ rất thấp - có nơi chỉ đạt hơn 10%. Điều này đã dồn áp lực giải quyết tranh chấp, khiếu nại của người dân lên cấp cao hơn, gây nên sự quá tải cho các cơ quan tư pháp và phát sinh khiếu nại vượt cấp, kéo dài. Do đâu có tình trạng này?
Nhiều vụ việc bị “ngâm” ở cơ sở
Tại phường Tân Chánh Hiệp quận 12 TPHCM xảy ra một vụ tranh chấp nhà kéo dài đã hơn 3 năm nay, mà vẫn chưa xong bước hòa giải ở cơ sở. Câu chuyện bắt đầu từ hợp đồng mua bán căn nhà số 31/4B khu phố 2 giữa ông H. (người bán) và ông T. (người mua). Hợp đồng được Phòng Công chứng số 5 chứng nhận ngày 15-11-2005. Thế nhưng, khi dọn về ở thì ông T. đã bị ông Hùng và bà Mao là người hàng xóm đứng ra ngăn cản và nhất quyết không cho vào ở.
Lý do được ông Hùng và bà Mao đưa ra là ông H. (chủ cũ) có xích mích với mình nhưng chưa giải quyết xong. Tranh chấp đã dẫn đến nhiều lần ẩu đả giữa các bên, mỗi lần như vậy cán bộ phường đều xuống chứng kiến, sau đó… giải tán. Không chịu được cảnh có nhà mà không ở được, cuối năm 2007, ông T. bán nhà lại cho ông N. Hợp đồng mua bán cũng được công chứng, nhưng ông N. không vào ở được, vì cũng bị ông Hùng và bà Mao ngăn cản.
Đơn khiếu nại được ông N. gửi từ phường lên tới quận đều không được giải quyết, vì chưa xong hòa giải ở cơ sở. 4 lần ông N. có mặt theo điện thoại mời của cán bộ tư pháp phường (không có thư mời) - thì cả 4 lần ông Hùng và bà Mao vắng mặt. Cứ như vậy, gần 1 năm nay ông N. phải “bó tay” không vào nhà của mình được, vì UBND phường Tân Chánh Hiệp chưa tổ chức hòa giải (!?).

Vụ tranh chấp căn nhà 31/4B khu phố 2, mỗi lần có ẩu đả giữa các bên, cán bộ tư pháp phường (trái) xuống ghi nhận... rồi thôi! Ảnh: P.V.
Một trường hợp khác xảy ra tại phường 4 quận 3, cũng với việc hòa giải tại cơ sở diễn ra nhiều năm không ngã ngũ giữa các bên. Theo đơn khiếu nại của ông A., năm 1973, bà B. bán cho gia đình ông một mảnh đất phía sau nhà.
Ông A. đặt cọc cho bà B. 200.000 đồng (tiền chế độ cũ), nhưng từ đó đến nay ông A. không nhận được đất. Nhiều lần ông A. đề nghị bà B. trả lại 10 lượng vàng, tương đương số tiền đặt cọc hơn 30 năm trước, nhưng bà B. không chấp nhận. Vụ việc đưa ra phường nhiều lần nhưng không giải quyết được.
Cuối cùng, vào tháng 6-2008, phường mới đưa ra hòa giải. Sau vài lần hỏi, đáp giữa các bên, Hội đồng hòa giải phường kết luận “hòa giải không thành”. Ấm ức với cách hòa giải “hòa cả làng” này, ông A. thở dài, nói: “Chỉ có vậy thôi mà “ngâm” đến vài chục năm. Sao không “quyết” ngay từ đầu để tôi còn tính chuyện kiện ra tòa yêu cầu giải quyết”.
Đó là 2 trong rất nhiều trường hợp tranh chấp, khiếu nại bị “ngâm” hòa giải ở cơ sở. Nhiều vụ việc tưởng rất đơn giản, nhưng đã không được chính quyền cơ sở giải thích, vận động, thuyết phục để đi tới hòa giải thành. Đơn cử, tại huyện Nhà Bè từ năm 2007 đến nay, chỉ có 170/1.319 vụ việc được hòa giải thành (đạt 12,9%); tại quận 12 có 82/305 vụ việc hòa giải thành (đạt 27%)… Với tỷ lệ hòa giải thành quá thấp, số vụ việc còn bị “ngâm” ở cơ sở hiện rất lớn và đang phải nằm chờ, nhưng không biết đến bao giờ mới đưa ra hòa giải, hoặc hướng dẫn cho người dân chuyển vụ việc sang khởi kiện dân sự theo luật định.
Cán bộ hòa giải thiếu kiến thức pháp luật
Đó là nhận định của bà Nguyễn Thị Thu Trang, Trưởng phòng Tư pháp quận 3, khi nói về nguyên nhân vì sao số vụ việc tranh chấp, khiếu nại được hòa giải thành tại cơ sở đạt thấp. Theo bà Trang, đội ngũ cán bộ hòa giải tại cơ sở hiện nay có từ tổ dân phố, đến khu phố và phường, nhưng đều rơi vào tình trạng các vụ việc chậm được đưa ra hòa giải, hoặc có đưa ra hòa giải nhưng phần lớn là “không thành”. Theo quy định, các tranh chấp, khiếu nại về đất đai, nhà cửa đều phải thông qua Hội đồng hòa giải của phường giải quyết.
Còn các vụ việc tranh chấp khác đều do hòa giải viên là tổ trưởng, hoặc tổ phó dân phố tiến hành. Việc phân cấp này đặt trách nhiệm quá sức lên vai cán bộ tổ dân phố khi tham gia giải quyết tranh chấp, khiếu nại, vì phần lớn họ đều không am hiểu về pháp luật. Đơn cử như các vụ cãi vã tại khu dân cư giữa vợ chồng, con cái về tranh chấp tài sản, cán bộ tổ dân phố thường mù tịt về Luật Hôn nhân gia đình, Luật Dân sự. Hay tranh chấp về sở hữu tài sản liên quan đến các hộ dân, khi được mời đứng ra hòa giải, các tổ trưởng, tổ phó dân phố đều “bó tay” vì không nắm được các quy định của Luật Xây dựng, Luật Nhà ở, Luật Cư trú…
Còn cấp phường, Hội đồng hòa giải được thành lập với đủ thành phần như: MTTQ, tư pháp, công an, địa chính…, nhưng khi triệu tập để tiến hành hòa giải thì thường không đủ, hoặc sai thành phần. Hình thức hòa giải chủ yếu là nghe các bên tranh chấp nói xong, rồi ra “phán quyết” thành hay không thành.
Theo Quyết định 93/2006 của UBND TPHCM, cứ mỗi vụ hòa giải thành được chi 100.000 đồng. Các khoản chi khác như: tập huấn (30.000 đồng/người/ngày), đi lại, xác minh, tài liệu… đều được chi thỏa đáng. Thế nhưng, kinh phí cho công tác hòa giải tại cơ sở nhiều năm qua đều “dương”, có nghĩa là chi không hết. Đơn cử tại quận 3, ngân sách chi cho hòa giải một năm khoảng 300 triệu đồng, nhưng năm nào cũng chỉ chi vài chục triệu đồng, còn lại… đem nộp. Mỗi năm, quận cho in một quyển “cẩm nang hòa giải” rồi phát đến từng hòa giải viên (hơn 500 người), nhưng số vụ việc tranh chấp, khiếu nại được hòa giải thành ở cơ sở mỗi năm cũng chỉ nhích lên được vài vụ.
HOÀI NAM