Ngày 24-7, tại An Giang, Chính phủ tổ chức hội nghị về chính sách, mô hình phát triển các sản phẩm trọng điểm vùng ĐBSCL. Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh chủ trì hội nghị. Tham dự còn có đại diện các bộ, ngành, Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, lãnh đạo các tỉnh ĐBSCL và TPHCM.
Những khó khăn chung
Hai báo cáo của Bộ NN-PTNT và Bộ Công thương đã nêu lên những khó khăn của những mặt hàng chiến lược, mũi nhọn của ĐBSCL như: lúa, cá tra, tôm sú đều đối diện với khó khăn chồng chất. Cả nông dân trồng lúa và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu đều rơi vào khó khăn chung: giá cả thấp, thiếu đầu ra và thiếu vốn. Trong đó, nổi lên là tình trạng tôm chết hàng loạt, gây thiệt hại nặng nề, nhà máy thiếu nguyên liệu chế biến xuất khẩu.
Trong khi đó, giá lúa luôn ở mức thấp do xuất khẩu gạo gặp nhiều đối thủ cạnh tranh ở thị trường gạo phẩm cấp thấp. Đối với cá tra, chính sự cạnh tranh không lành mạnh, chào mời giá thấp đã đẩy doanh nghiệp xuất khẩu và nông dân lâm vào cảnh lỗ nặng. “Hội nghị là nơi gợi mở, tìm ra cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn cho nông dân và doanh nghiệp, từng bước thúc đẩy các mặt hàng nông - thủy sản chủ lực phát triển ổn định, làm nền tảng nâng cao đời sống của người dân trong vùng” - Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh ra “đề bài”.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Long An Nguyễn Thanh Nguyên bức xúc: “Hiện các cơ chế, chính sách đặt ra khá nhiều nhưng đi vào thực tế còn khó. Cụ thể như sản phẩm trọng điểm là lúa gạo. Địa phương muốn đầu tư trạm bơm điện theo chỉ đạo của Thủ tướng nhưng cũng chưa xác định được trách nhiệm này thuộc ngành nào gánh vác. Trong đó, các công trình thủy lợi hiện nay bồi lắng rất nhiều sau mỗi mùa lũ, nếu không có kinh phí nạo vét, ĐBSCL sẽ quay lại cảnh thiếu nước trong sản xuất nông nghiệp mùa khô”.
Vấn đề được lãnh đạo các tỉnh trong vùng bàn thảo nhiều là nên tạm trữ hay chủ động mua dự trữ và ai đứng gánh ra trọng trách này. Có ý kiến cho rằng: các quyết định mua tạm trữ lúa, gạo là đúng nhưng ban hành chậm. Đến khi doanh nghiệp triển khai, nông dân đã bán hết. Tuy nhiên, có ý kiến đặt vấn đề: Dân muốn đưa lúa vào kho nhưng kho dự trữ nhà nước không có hệ thống sấy lúa thì sao?
Bí thư Tỉnh ủy An Giang Phan Văn Sáu đề xuất: “Khâu dự trữ hay tạm trữ phải do nhà nước làm, không nên để doanh nghiệp nhận khâu này. Trên cơ sở phải quy hoạch, đầu tư cho các vùng cộng với kho các doanh nghiệp”.
Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh nhấn mạnh: “Dự trữ hay tạm trữ là vấn đề đại sự. Bộ Tài chính, Bộ NN-PTNT cần nghiên cứu nhanh nên đi theo hướng nào; phương thức dự trữ, trách nhiệm của các tổng công ty, doanh nghiệp kinh doanh, xuất khẩu lúa gạo ra sao?”.
Trong khi thị trường gạo phẩm cấp thấp gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ nhiều đối thủ, bà Mai Thị Ánh Tuyết, Giám đốc Sở Công thương An Giang, cho rằng: Cần có lộ trình để phát triển lúa hàng hóa theo hướng chất lượng cao, giảm dần tỷ lệ gạo phẩm cấp thấp để hạn chế rủi ro cho nông dân. Đây cũng là một đề xuất đáng được nghiên cứu khi thị trường tiêu thụ gạo có những “đột biến” lớn về gạo phẩm cấp thấp.
Chính sách chưa đi vào trọng tâm
Nhiều người trách không ít doanh nghiệp xuất khẩu cá tra đã tự “đào lỗ chôn mình” khi tự hạ giá bán cá để câu khách hàng. “Mỗi lần các doanh nghiệp đi dự hội chợ thủy sản quốc tế về, giá cá tra xuất khẩu lại giảm thê thảm. Doanh nghiệp không chỉ tự hại mình mà kéo chìm theo người nuôi cá” - một lãnh đạo tỉnh Tiền Giang chua xót nhận định.
Thời cực thịnh của con cá tra đã tạo ra hàng trăm tỷ phú cá tra ở các cù lao và các vạt đất ven sông Hậu, sông Tiền và tự hào mang về hàng tỷ USD từ xuất khẩu. Khi các nhà máy thủy sản mọc lên như nấm, xuất hiện các nhà xuất khẩu “hai không”: không nuôi cá, không nhà máy thì thị trường xuất khẩu cá tra rối như canh hẹ. Điều này cũng thể hiện sự quản lý quá kém của các cơ quan, tổ chức, hội nghề nghiệp… để doanh nghiệp muốn làm gì thì làm.
“Chính phủ sớm triển khai các cơ chế, chính sách giải pháp hỗ trợ thiết thực cho người nuôi và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra. Các giải pháp này chậm, hậu quả sẽ rất nặng cho khu vực ĐBSCL. Hiện tại, cả nông dân và doanh nghiệp không tiếp cận được vốn vay. Nếu gói hỗ trợ mà kèm theo điều kiện “đòi thế chấp tiếp”, cả nông dân và doanh nghiệp đều không thể vay tiếp, vì tài sản họ đã nằm ở ngân hàng. Các cơ chế, chính sách đưa ra phải lường trước được tình trạng của nông dân, doanh nghiệp hiện nay để điều chỉnh hợp lý” - bà Mai Thị Ánh Tuyết kiến nghị.
Các tỉnh vùng ĐBSCL kiến nghị các chính sách hỗ trợ, tăng cường liên kết đối với sản xuất lúa và một số mặt hàng nông sản, thủy sản chủ yếu. Đối với cây lúa, tập trung giải quyết vấn đề nước tưới (hỗ trợ kinh phí củng cố đê bao sản xuất lúa vụ thu đông, bơm tát nước cho sản xuất vụ đông xuân tới), áp dụng chính sách hỗ trợ tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng tăng mức vốn vay.
Về xây dựng cánh đồng mẫu lớn, đề nghị ngân sách nhà nước hỗ trợ đầu tư 100% kênh mương cấp 1, cấp 2, hỗ trợ 50% giống lúa cho 1 vụ đầu, hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân đầu tư máy nông nghiệp, hệ thống sấy lúa, hỗ trợ 100% kinh phí đào tạo, huấn luyện nông dân các kỹ năng sản xuất và phối hợp tiêu thụ sản phẩm.
Về chính sách, đề nghị cần ban hành văn bản bắt buộc doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải xây dựng ít nhất một vùng nguyên liệu đảm bảo đủ lúa cung cấp ít nhất 15% lượng gạo xuất khẩu trong năm theo hợp đồng của năm 2013, tiến tới năm 2014 phải đảm bảo ít nhất 50% lượng gạo xuất khẩu trong năm theo hợp đồng.
Đặc biệt, cần thiết phải phát triển các mô hình liên kết sản xuất giữa hộ nông dân, các tổ chức hợp tác như hợp tác xã với các thành phần kinh tế ở nông thôn trong vùng, với 2 sản phẩm chủ lực của vùng là lúa và cá, nếu thực hiện đúng với tinh thần liên kết.
Kết luận hội nghị, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh cho rằng: Trong bối cảnh kinh tế thế giới khủng hoảng, kinh tế Việt Nam cũng lâm vào khó khăn, nhưng một lần nữa vai trò của sản xuất nông nghiệp đã gánh vác, góp phần vào ổn định an sinh xã hội, kiềm chế lạm phát, tạo ra nguồn nguyên liệu tiếp tục duy trì nhịp độ xuất khẩu các mặt hàng chủ lực.
Đối với kiến nghị về cơ chế chính sách của các tỉnh vùng ĐBSCL, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh kết luận: “Thống nhất cao việc nghiên cứu hoàn thiện cơ chế, chính sách; lựa chọn sản phẩm trọng điểm quốc gia, gắn với các quy hoạch đối với từng vùng. Các quy hoạch và điều chỉnh phải phát huy lợi thế cả vùng, không rơi vào tình trạng tự phát”.
Theo Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh, trước mắt, triển khai nhanh các cơ chế, chính sách hỗ trợ cho người nuôi, doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra. Về lâu dài, nghiên cứu, bổ sung thêm các cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc thị trường có vai trò nhà nước hỗ trợ. Đảm bảo lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và nông dân.
| |
CAO PHONG