Không chỉ Cục Tình báo trung ương (CIA), Cơ quan Quân báo quốc phòng (DIA) thuộc Lầu Năm góc, Cơ quan An ninh quốc gia (NSA) và Văn phòng Do thám quốc gia (NRO), Bộ Ngoại giao Mỹ cũng tham gia tình báo thời chiến tranh Việt Nam. Đây là một trong những bí mật dai dẳng và chỉ được công bố mới đây, dựa vào tài liệu giải mật được đăng trên website Cục Tàng thư quốc gia Hoa Kỳ. Cụ thể, Bộ Ngoại giao Mỹ làm gì trong cuộc chiến rình mò tại chiến trường Việt Nam?
Nhiệm vụ đầu tàu của Bộ Ngoại giao Mỹ
Nghiên cứu tình báo Bộ Ngoại giao Mỹ thời chiến tranh Việt Nam được tiến hành từ Phòng Nghiên cứu tình báo (INR) thuộc cơ quan này. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ bắt đầu khảo sát chi tiết tình hình Việt Nam vào năm 1968, dưới chỉ đạo của Thomas L. Hughes, lúc đó là giám đốc INR.
Bản nghiên cứu đề tựa A Review of Judgments in INR Reports (Khảo sát đánh giá các báo cáo INR) hoàn thành năm 1969 và vẫn là tài liệu tuyệt mật trong nhiều thập niên cho đến đầu năm 2005. Phần quan trọng nhất trong tài liệu là báo cáo tổng kết quan điểm Bộ Ngoại giao Mỹ về các chủ đề tình báo khác nhau suốt thập niên 1960, được trình bày bởi W. Dean Howells và Dorothy R. Avery (hai viên chức INR đặc trách Đông Nam Á).
Cần nhấn mạnh, Bộ Ngoại giao là một trong những cơ quan quan trọng hàng đầu nội các Hoa Kỳ, nơi đóng vai trò hoạch định chính sách cũng như chiến lược đối ngoại. Trong các động thái đối với tình hình Việt Nam thời thập niên 1960, nhiệm vụ đầu tàu trong chiến lược đối sách của Bộ Ngoại giao Mỹ càng được tô đậm.
Sau khi nhậm chức tổng thống, John F. Kennedy chỉ định Roger A. Hilsman làm giám đốc INR. Chủ trương biến INR thành bộ máy hoạch định chính sách, Hilsman kích hoạt loạt thay đổi trong Bộ Ngoại giao. Kennedy tin cậy Hilsman đến mức thường tham khảo ý kiến nhân vật này hơn cả Ngoại trưởng Dean Rusk.
Khi vụ khủng hoảng tên lửa Cuba xảy ra năm 1962, Hilsman đóng vai trò quan trọng trong điều phối tình báo cũng như tổ chức loạt cuộc họp giữa Kennedy và EXCOM (Ủy ban Điều hành thuộc Hội đồng An ninh quốc gia Hoa Kỳ).
Từng là cựu binh Thế chiến thứ hai tại Myanmar (khi làm việc cho OSS - tiền thân CIA), Hilsman rành rẽ các thủ thuật của chiến tranh bất quy ước, phù hợp với quan điểm Kennedy về chiến tranh chống du kích tại Việt Nam. Hilsman thậm chí còn soạn cẩm nang đầu tiên về phương pháp chống chiến tranh du kích được phân phát cho quân đội Mỹ, trong đó ghi rõ cách thức đối phó cuộc chiến tranh nhân dân chống Ngô Đình Diệm tại Nam Việt Nam. Nói cách khác, Hilsman đã đặt nền tảng cho cuộc chiến tình báo của Bộ Ngoại giao Mỹ tại Việt Nam.
INR chỉ khoảng 350 nhân viên, được phân thành hai nhóm chính - nhóm liên lạc và nhóm phân tích thông tin tình báo. Nhóm liên lạc có nhiệm vụ điều phối và hợp tác với các cơ quan liên quan tình báo khác, giúp ngoại trưởng quyết định chính sách như thế nào đối với các đề nghị từ CIA cho những chiến dịch đặc biệt.
Trong khi đó, nhóm phân tích làm việc chặt chẽ với các tuyến tình báo mặt trận (chẳng hạn Phòng Nghiên cứu Liên Xô, nơi thu thập thông tin tình báo liên quan Xô Viết và hệ thống vệ tinh do thám Đông Âu). Với cuộc chiến Việt Nam, nhóm phân tích INR làm việc cùng Phòng Viễn Đông (RFE), nơi có các chuyên gia phân tích tình báo lão luyện.
Từ năm 1962-1966, RFE nằm dưới sự chỉ đạo của Allen S. Whiting, một tay tổ trong làng phân tích tình báo, từng nổi tiếng với công trình nghiên cứu China Crosses the Yalu (viết về những thất bại nghiêm trọng trong chính sách và tình báo thời chiến tranh Triều Tiên).
Khi được Hilsman cất nhắc ở vị trí sếp RFE, Whiting tuyển dụng (cô) Evelyn Colbert làm trưởng chi nhánh văn phòng Viễn Đông. Là một bản sao của Hilsman, Colbert 43 tuổi đã trở thành thế hệ phân tích gia (về tình báo) đầu tiên tại cuộc chiến Việt Nam.
Trong khi Colbert đặc trách thông tin tình báo Nam Việt Nam, một nữ nhân viên RFE khác - Dorothy Avery - được giao nhiệm vụ nghiên cứu thông tin tình báo Bắc Việt. Dorothy Avery có bằng thạc sĩ Đông Á học tại Đại học Harvard, từng được CIA thuê thực hiện các công trình phân tích về cộng sản Trung Quốc. Ngoài ra, RFE còn có Louis G. Sarris, được giao nhiệm vụ khảo sát Việt Nam không lâu sau chuyến công lý sang Mỹ của Ngô Đình Diệm.
Phác họa chính sách
Trong năm đầu tiên Kennedy ở ghế tổng thống, INR đóng vai trò quan trọng trong phác họa chính sách và tiếp tục khẳng định rằng Nam Việt Nam còn có một số gương mặt khác có thể thay Diệm; rằng vấn đề khó khăn của Mỹ ở Nam Việt Nam xuất phát chủ yếu từ chương trình viện trợ vô bổ của Washington; rằng sức mạnh của Mặt trận giải phóng miền Nam khởi nguồn từ các làng quê Nam Việt Nam chứ không phải do sự trà trộn của bộ đội miền Bắc.
Sau chuyến thị sát thực tế của tướng Maxwell D. Taylor và phó cố vấn an ninh quốc gia Walt W. Rostow, INR tung ra báo cáo, ghi: “Điểm yếu cơ bản trong kế sách chống chiến tranh du kích (của Mỹ) là quan điểm phổ biến (từ Washington) rằng cuộc khủng hoảng Việt Nam có thể giải quyết thuần túy bằng viện trợ ào ạt”.
Tháng 1-1962, Kennedy yêu cầu Hilsman sang Nam Việt Nam. Viên giám đốc INR nhận thấy nỗ lực chống chiến tranh du kích bằng biện pháp quân sự là không đủ; đồng thời ủng hộ ý tưởng ấp chiến lược (sau chuyến đi, Hilsman đệ trình Kennedy báo cáo A Strategic Concept for South Vietnam). Mùa xuân 1963, Kennedy bổ nhiệm Hilsman làm trợ lý ngoại trưởng đặc trách các vấn đề Viễn Đông. Ghế giám đốc INR được giao cho Thomas L. Hughes.
Bài 2: CIA và đường mòn Hồ Chí Minh
Phúc Cẩm