Bức tranh xám cho môi trường khu vực phía Nam

Nước bị xâm nhập mặn và ô nhiễm chất hữu cơ, chất vi sinh
Bức tranh xám cho môi trường khu vực phía Nam

Mặc dù đã có nhiều cố gắng và đã đạt được một số thành tựu nhưng nhìn chung công tác bảo vệ môi trường ở khu vực phía Nam vẫn còn nhiều bất cập. Bức tranh tổng thể về môi trường khu vực này vẫn là một màu xám. Đó là tinh thần cơ bản trong hội nghị giao ban về hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường các tỉnh khu vực phía Nam được tổ chức tuần qua tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Nước bị xâm nhập mặn và ô nhiễm chất hữu cơ, chất vi sinh

Một đoạn kênh Ba Bò nước đen, nổi bọt trắng. (Ảnh chụp chiều 26-6-2009). Ảnh: ĐỨC TRÍ

Một đoạn kênh Ba Bò nước đen, nổi bọt trắng. (Ảnh chụp chiều 26-6-2009). Ảnh: ĐỨC TRÍ

Đó là cụm từ được Bộ Tài nguyên-Môi trường và nhiều địa phương dùng để mô tả thực trạng nguồn nước ở khu vực phía Nam. Theo Bộ Tài nguyên-Môi trường, ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nguồn nước trên sông Tiền, sông Hậu và các cửa sông thông ra biển đã có dấu hiệu nhiễm bẩn chất hữu cơ và chất vi sinh do các nguồn thải công nghiệp, nguồn thải nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp… chưa được xử lý, thải ra.

Môi trường nước ở lưu vực sông Đồng Nai cũng ở trong tình trạng tương tự, song xét mức độ thì có nhiều điểm đáng lo ngại hơn vì tại đây đã có đến 2 con sông, kênh bị ô nhiễm nghiêm trọng, cần phải xử lý ngay, đó là kênh Ba Bò và sông Thị Vải.

Nguồn nước ngầm cũng rất đáng lo khi mà ở ĐBSCL đã có một số đô thị như Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng bị xâm nhập mặn cục bộ, mực nước ngầm liên tục suy giảm. Thậm chí ở 6 xã của tỉnh An Giang, 6 xã của tỉnh Đồng Tháp, 5 xã của tỉnh Kiên Giang, 6 xã của tỉnh Bến Tre, 3 xã của tỉnh Long An, 4 xã của tỉnh Vĩnh Long đã phát hiện bị nhiễm arsen (một loại chất có khả năng gây ung thư) trong nguồn nước ngầm.

Ở miền Đông Nam bộ, khu vực giàu nước ngầm chỉ còn khoảng 9.200km², chiếm 35% diện tích, trong khi đó diện tích đất nghèo nước ngầm vào khoảng 14.600km², chiếm 55% diện tích và diện tích nước rất nghèo đến không chứa nước là khoảng 2.300km², chiếm 9% diện tích. Nguồn nước ngầm ở miền Đông Nam bộ chủ yếu bị nhiễm nitrat, là loại ô nhiễm xử lý khá khó khăn. Nhiễm nitrat cũng là “căn bệnh” khá phổ biến của các quận, huyện tại TPHCM như Gò Vấp, Tân Bình, Hóc Môn, Bình Chánh và quận 12.

Hệ sinh thái rừng và đa dạng sinh học bị suy giảm

Trong những năm gần đây, hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển, rừng tràm ngập úng ở ĐBSCL và tính đa dạng sinh học của khu vực đã bị suy giảm nhanh chóng do quá trình đầu tư, khai hoang phát triển nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản.

Đây là nhận định của ngành lâm nghiệp và Bộ Tài nguyên-Môi trường đã viện dẫn nhận định này như là một bằng chứng để chứng minh cho thực trạng chất lượng môi trường biển và rừng ở khu vực phía Nam. Hiện nay, ở đây diện tích đất lâm nghiệp chỉ còn khoảng 356.200ha, trong đó rừng tự nhiên chỉ chiếm khoảng 15% và còn lại 85% là rừng trồng tái sinh. Các vùng biển và vùng ven biển còn khoảng 260 loài cá được ghi nhận và nhiều loại nhuyễn thể, giáp xác… cư ngụ.

Việc phát triển mạnh các hoạt động khai thác dầu khí cũng đã ảnh hưởng xấu đến môi trường ở khu vực này. Sự cố tràn dầu vào bờ biển Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Tiền Giang… trong những năm qua đã gây ra nhiều thiệt hại cho môi trường và sự phát triển kinh tế ở các địa phương nêu trên. Hoạt động khai thác thủy sản mang tính hủy diệt như dùng chất nổ, chất độc, xung điện… không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn lợi thủy sản mà cũng ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường.

Quản lý, sử dụng tài nguyên đất còn nhiều hạn chế

Từ năm 2006 đến nay công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn các tỉnh khu vực phía Nam đã có những chuyển biến rõ nét. Công tác quản lý đất đai theo quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất ngày càng đi vào thực chất. Việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất cơ bản đã bám sát và tuân thủ luật pháp.

Tuy nhiên, tình trạng quy hoạch “treo” còn khá phổ biến. Nhiều quy hoạch đúng, rất cần thiết, nhưng không có lộ trình thực hiện, không phân kỳ quy hoạch, dẫn tới cách hiểu lệch lạc, giản đơn, cho rằng quy hoạch là phải thực hiện ngay, nên vội vàng cấm đoán, ngăn cản việc thực hiện các quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất, đã gây bức xúc trong dân.

Việc phát triển các khu công nghiệp, các khu dân cư đô thị trong khu vực chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tỉnh đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái. Giá đất nông nghiệp tại một số địa phương còn quá thấp, chưa thực hiện đúng phương pháp xác định giá đất, nên chưa đảm bảo quyền lợi cho người dân có đất bị thu hồi. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến khiếu nại về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất. Ngoài ra, giá đất tại các khu vực giáp ranh giữa các tỉnh thường có sự chênh lệch lớn, cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến khiếu nại.

Công tác quản lý môi trường năm 2010 và kế hoạch đến 2015 của Bộ Tài nguyên-Môi trường

1. Trong lĩnh vực đất đai: Bảo vệ nghiêm ngặt diện tích đất chuyên trồng lúa nước.

2. Tài nguyên nước: Đảm bảo đến năm 2011 cơ bản hoàn thành việc cấp phép cho các công trình khai thác, sử dụng nước cho sản xuất nông nghiệp, thủy điện, cấp nước đô thị; xử lý nghiêm các trường hợp xả nước thải gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước; xác định các nguồn nước bị ô nhiễm.

Bộ Tài nguyên-Môi trường sẽ trình Chính phủ phương án tổ chức thực hiện Hiệp định hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mekong, xây dựng cơ chế quản lý, khai thác và sử dụng nguồn nước biên giới.

3. Các lĩnh vực môi trường khác: Kiên quyết xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Cảnh sát môi trường tập trung ngăn ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường.

An Nhiên (ghi)

Tin cùng chuyên mục