Bước ngoặt ổn định kinh tế vĩ mô

Tăng trưởng chậm
Bước ngoặt ổn định kinh tế vĩ mô

Năm 2013, nền kinh tế Việt Nam tuy có dấu hiệu phục hồi ở từng lĩnh vực cá biệt, nhưng nhìn chung chưa thoát khỏi giai đoạn trì trệ. Cả tốc độ và chất lượng tăng trưởng chưa được cải thiện đáng kể. Nhưng điểm tích cực nổi bật là các chỉ báo kinh tế vĩ mô được cải thiện theo hướng ổn định hơn; lạm phát được kiềm chế, dự trữ ngoại hối tăng, bình ổn được tỷ giá VNĐ...

Nếu xét trên mục tiêu tổng quát theo nghị quyết của Quốc hội là “tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô” thì kết quả của năm 2013 là tích cực. Nhưng những chỉ báo ổn định kinh tế vĩ mô thiếu vững chắc, nhất là nguy cơ tái lạm phát cao trong các năm sau, nếu thiếu những biện pháp đủ mạnh để tạo sự chuyển biến của tình hình. Nhiệm vụ đặt ra trong các năm 2014 và 2015 là hết sức quan trọng.

Tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước là nhiệm vụ cần thiết. (Trong ảnh: Sản xuất đồ hộp tại công ty thành viên Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn). Ảnh: Phạm Cao Minh

Tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước là nhiệm vụ cần thiết. (Trong ảnh: Sản xuất đồ hộp tại công ty thành viên Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn). Ảnh: Phạm Cao Minh

Tăng trưởng chậm

Năm 2014, nền kinh tế vẫn chưa thể ra khỏi giai đoạn trì trệ. Những khó khăn đặt ra trong năm 2013 vẫn tiếp tục kéo dài trong năm 2014. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhưng tốc độ chậm; khu vực kinh tế trong nước vẫn khó khăn; khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tuy giữ được lợi thế tăng trưởng, nhưng không có sự đột biến trong năm 2014; nông nghiệp đã đạt đến đỉnh tăng trưởng do chưa thay đổi về cơ cấu, nên khó có khả năng tăng trưởng cao hơn năm 2013; khu vực dịch vụ sẽ tăng trưởng khá hơn năm 2013, nhưng chưa có khả năng thúc đẩy cả nền kinh tế. Tuy nhiên, bức tranh chung của nền kinh tế năm 2014 vẫn sáng hơn 2 năm 2012 và 2013. Do đó, có thể dự báo trong năm 2014, tốc độ tăng GDP khoảng 5,5% và chỉ số tiêu dùng (CPI) tăng khoảng 7%. Nhiệm vụ chính trong năm 2014 - 2015 vẫn là giữ ổn định kinh tế vĩ mô và đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế.

Những dấu hiệu bất ổn vĩ mô được cải thiện so với các năm trước; đặc biệt là nguy cơ lạm phát cao đã được ngăn chặn. Tốc độ tăng CPI từ hơn 18% năm 2011 đã kéo giảm còn 6,81% trong năm 2012; năm 2013 chỉ còn 6,04%. Đây là kết quả nổi bật nhất trong mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. Có thể nói, trong ngắn hạn, lạm phát không còn là “con ngựa bất kham”. Do đó, hiện nay là thời điểm thích hợp, thời cơ để đưa ra những quyết sách mạnh mẽ, tạo bước ngoặt làm thay đổi tình hình, nếu chậm trễ sẽ mất cơ hội và chẳng bao lâu sẽ tái diễn sự bất ổn, với cái vòng luẩn quẩn như đã từng xảy ra.

Nhiệm vụ trọng tâm

1. Về ngắn hạn nhiệm vụ tập trung vẫn là giải quyết nợ xấu của các ngân hàng thương mại (NHTM) để xử lý điểm nghẽn của tín dụng, tạo điều kiện cho nền kinh tế hấp thụ vốn; trong đó phải xử lý một phần nợ xây dựng cơ bản mà ngân sách đang nợ doanh nghiệp. Điều chỉnh lại Nghị quyết 02 của Chính phủ phần liên quan đến gói hỗ trợ tín dụng 30.000 tỷ đồng cho thị trường bất động sản theo hướng kích thích phân khúc thị trường nhà ở “phổ thông”, tức loại nhà ở có giá dưới 1 tỷ đồng/căn hộ ở Hà Nội, TPHCM và khoảng 500 triệu đồng/căn hộ ở các địa phương khác thông qua công cụ tín dụng cho người mua nhà. Trong đó, hỗ trợ người mua chứ không hỗ trợ người bán.

2. Vấn đề đang đặt ra là phải làm thế nào để vực dậy nền kinh tế, tạo cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch 5 năm 2016 - 2020 theo hướng tích cực, trong đó thực hiện mục tiêu tái cơ cấu gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Mục tiêu lớn nhất của chúng ta là nền kinh tế Việt Nam phải tận dụng cơ hội của quá trình hội nhập để từ giai đoạn 2016 - 2020 có thể đạt được tốc độ tăng trưởng, như đã từng đạt được trong giai đoạn 1991 - 1996 và giai đoạn 2001 - 2007. Nếu nền kinh tế Việt Nam không đạt được tốc độ tăng trưởng như vậy, khoảng 7% - 8% mỗi năm trong vòng vài thập niên, thì chúng ta không thể kỳ vọng đến sự thành công trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước và cũng không có tiền đề vật chất để nâng cao phúc lợi xã hội.

Cần thực hiện chương trình trung hạn phục hồi kinh tế dựa trên các nội dung chính như sau:

Thứ nhất, chương trình này kéo dài đến hết năm 2015. Chính sách chủ đạo của chương trình trung hạn này là thực hiện chính sách ”lạm phát mục tiêu”, với mức tăng CPI khoảng 7% mỗi năm trong 3 năm 2013 - 2015 và dưới 5% trong các năm tiếp theo. Có sự phối hợp giữa các chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách thị trường hóa giá cả một số loại dịch vụ công, mà Nhà nước đang còn quy định giá và chính sách ngoại thương. Chương trình phục hồi kinh tế trung hạn sẽ chấm dứt tình trạng ban hành các giải pháp theo kiểu “ăn đong” như thời gian qua. Phải chuyển chính sách từ kiềm chế lạm phát bị động sang lạm phát chủ động. Mức lạm phát mục tiêu sẽ tạo ra dư địa cho chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ cũng như lộ trình điều chỉnh giá cả dịch vụ, hàng hóa công cộng, không gây ra lạm phát do chi phí đẩy.

Thứ hai, từ chính sách “lạm phát mục tiêu” trên, chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa phải phục vụ cho mục tiêu huy động tổng đầu tư xã hội từ 30% - 32% GDP trong 3 năm sắp đến. Ở đây đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa và qua đó huy động các nguồn lực bổ sung cho nhau nhằm bảo đảm tổng đầu tư xã hội.

Thứ ba, trước mắt trong 2 năm 2014 và 2015 cần mạnh dạn tăng công chi dưới nhiều hình thức để kích thích tăng tổng cầu. Cụ thể, tăng trần bội chi ngân sách so với mức 4,8% GDP hiện nay; phát hành trái phiếu Chính phủ, ngoài định mức 45.000 tỷ đồng/năm như Quốc hội đã cho phép nhằm thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản và các công trình xây dựng dang dở. Chúng ta ý thức việc phải bảo đảm an toàn nợ công, nhưng trong tình thế hiện nay, chính đầu tư công là giải pháp có tác động nhanh nhất để kích thích sự tăng tổng cầu của nền kinh tế, khi mà chính sách tiền tệ đang có tác dụng hạn chế. Một khi nền kinh tế hấp thụ được vốn tốt hơn, có điều kiện để tăng tín dụng, sẽ giảm đầu tư công, khuyến khích đầu tư tư nhân, cân bằng mức nợ công như Quốc hội cho phép.

Thư tư, lồng ghép vào các nhóm giải pháp trên trong chương trình trung hạn cần có sự đột phá trong nhiệm vụ tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Hiệu quả sử dụng nguồn lực này là nhân tố chủ đạo trong quá trình tái cơ cấu kinh tế. Lực lượng DNNN không làm thay thị trường, nhưng là một lực lượng rất quan trọng để bổ khuyết những khuyết tật của thị trường. Trên quan điểm đó thì không thể thành công nếu tái cơ cấu từng tập đoàn, tổng công ty riêng lẻ mà phải thực hiện trên tổng thể lực lượng DNNN hiện hữu. Nhiệm vụ tái cơ cấu DNNN là nhiệm vụ của Chính phủ, chứ không phải nhiệm vụ của từng đơn vị. Nếu đặt đúng tầm như vậy chúng ta mới có thể thực hiện thành công việc tái cơ cấu DNNN theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa XI).

Tóm lại, nhiệm vụ của năm 2014 và 2015 là phải phục hồi niềm tin của thị trường thông qua các chính sách kinh tế trung - dài hạn và kết quả của quá trình tái cơ cấu 3 lĩnh vực ưu tiên, theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa XI), trong đó tái cơ cấu hệ thống NHTM và khu vực DNNN là quan trọng nhất để vừa bảo đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô, vừa tạo niềm tin cho thị trường.

TS TRẦN DU LỊCH
(Phó Trưởng đoàn chuyên trách đoàn ĐBQH TPHCM)

Tin cùng chuyên mục