Vào những năm đầu thập kỷ tám mươi (1980), cơ quan Bộ Tư lệnh Hải quân chưa có nhiều nhà cao cửa rộng như bây giờ. Ngoài tòa nhà hai tầng nhiều gian xây từ thời Pháp, án ngữ cả bề ngang khu doanh trại rộng lớn, cửa hướng đường Điện Biên Phủ, thành phố Hải Phòng, nơi làm việc của cơ quan đầu não, còn lại toàn là nhà cấp bốn, xây vào nhiều thời điểm khác nhau và đều đã xộc xệch, cũ kỹ.
Giáp với bờ tường rào phía Đông Bắc có một dãy nhà kho xây từ thời mới thành lập quân chủng, tường đã bị bong từng mảng vữa, trơ ra những hàng gạch ghẻ lở. Trên mái nhiều chỗ bị võng xuống, những hàng ngói lên rêu sô lệch trông rất tiêu điều. Ở cuối dãy nhà ấy có một gian của người coi kho.
Một đêm nọ người lính coi kho đeo quân hàm hạ sĩ đã đột tử ở đây. Người lính khác đến thay thế, ngủ được mấy đêm thì kêu là bị “ma” đè vào ngực suýt nữa tắc thở, anh ta xin thuyên chuyển đi chỗ khác. Phòng hành chính lại cử một anh lính “già”, có thâm niên thượng sĩ đến thay thế. Nhưng anh thượng sĩ trải đời này cũng chẳng ở được lâu. Anh ta nói với người sĩ quan trực ban rằng cứ vào lúc đêm nghiêng về sáng là như có người chịt hai tay vào cổ anh mà bóp.
Thấy chuyện có gì đó bất tiện nếu dư luận bùng ra, phòng hành chính quyết định không cần người coi kho nữa. Vả lại, kho nằm ngay trong khuôn viên cơ quan Bộ Tư lệnh, quá an toàn, cần gì phải coi! Từ đó căn phòng ấy bỏ không, khóa cửa im lìm, cỏ mọc phủ bậc cửa.
Tôi về nhận nhiệm vụ tại cơ quan Bộ Tư lệnh Quân chủng từ tháng 2 năm 1979, được nghe mọi người kể, rồi “mục sở thị” cái căn phòng nổi tiếng này. Nhưng cũng chẳng có điều gì phải để ý đến nó nhiều. Tháng 4-1980, nhà thơ Trần Đăng Khoa được Tổng cục Chính trị điều về hải quân, cùng làm việc trong Nhà Văn hóa với tôi.
Hồi Khoa chưa về, tôi ở cùng phòng với 6 người trong cơ quan, mỗi người mỗi việc. Cứ khoảng 9 giờ đến 9 giờ 30 phút đêm, nghe tiếng kẻng là tất cả phải lên giường, tắt đèn ngủ, không ai được làm phiền tới giấc ngủ của người khác. Dạo ấy tôi mới được đăng những truyện ngắn, bút ký đầu tay và đang rất ham viết. Hôm nào mà trong đầu nảy ra ý tưởng sáng tác thì đêm đến, chờ anh em trong phòng ngủ say, tôi lại lặng lẽ thức dậy, ròng dây kéo cái bóng điện ra hè ngồi kê tập giấy lên đùi mà viết.
Đến khi Trần Đăng Khoa về ở cùng phòng, cũng bắt chước tôi viết lách kiểu ấy. Một lần, ông Ngô Thế Lãng, Chủ nhiệm Nhà Văn hóa Quân chủng, thủ trưởng trực tiếp quản lý chúng tôi, đi trực ban trông thấy, ông không phê phán hay khiển trách gì, nhưng sáng hôm sau thì ông gọi chúng tôi lên phòng chủ nhiệm, mời uống nước rồi nói:
– Kể ra, hai cậu làm cái việc văn thơ phú nghĩa mà xếp ở chung phòng với nhiều người là bất tiện lắm. Bây giờ chỉ còn gian phòng ở phía ngoài cùng dãy nhà kho là bỏ trống. Sở dĩ còn bỏ trống vì anh em đồn đại căn phòng ấy có ma! Anh em lính tráng trẻ người non dạ. Còn các cậu, nhà thơ nhà văn, lại đeo hàm sĩ quan, chẳng nhẽ cũng tự xếp mình ngang với loài cáy? Nếu nhất trí, tôi sẽ đề nghị cơ quan xếp cho hai cậu ở gian phòng ấy…?
Trần Đăng Khoa đưa mắt nhìn tôi thăm dò. Tôi thì không phải đắn đo gì, nói luôn:
– Vâng, xin thủ trưởng cứ bố trí cho chúng tôi ở căn phòng ấy. Nếu có ma thật thì chúng tôi càng được trải nghiệm chuyện sống chung với ma nó ra làm sao, để còn đưa vào văn chương chứ ạ.
Thế là chiều hôm ấy tôi và Trần Đăng Khoa nhận chìa khóa về ở căn phòng có “ma”. Chúng tôi kê hai chiếc giường cá nhân và hai chiếc bàn nhỏ song song nhau, chỉ cách nhau vừa một lối đi.
Khi ngả lưng nằm thử, Trần Đăng Khoa tỏ ra rất hài lòng, bảo tôi:
– Ở như thế này cũng là lý tưởng rồi. Ông biết không, cái Trường sĩ quan Lục quân, nơi tôi vừa học, mà một căn phòng như thế này họ phải kê ba cái giường tầng, nhét vào sáu nhân mạng!
– Với tôi thì được như thế này cũng là quá tốt! - tôi phụ họa - Ít nhất thì cũng thoát được cái cảnh đêm đêm ra hè ngồi viết, không ít đêm gió bấc lùa lạnh thấu xương… Hỏi thật nhé, ông đã gặp ma bao giờ chưa?
– Gặp rồi - Trần Đăng Khoa đáp - Hồi tôi còn thiếu niên, có chị phụ trách tên là Duyên, rất xinh đẹp. Không may chị ấy bị bệnh tim, chết trẻ. Mà người chết trẻ là vong hồn linh thiêng lắm. Dạo tôi mới nhập ngũ, nhiều đêm thấy chị ấy hiện về, nói chuyện với tôi y như hồi chị ấy còn sống. Tôi cũng không thể nhớ rành mạch là lúc ấy tôi thức hay ngủ. Nếu tôi ngủ thì đó chỉ là những giấc mơ. Nhưng nếu tôi thức, hiện tượng đó không là ma thì là gì? Vậy còn ông, đã gặp ma bao giờ chưa?
– Hồi còn nhỏ tôi thường đi câu cá trê ban đêm với lũ trẻ cùng xóm ở những cái đầm ngoài cánh đồng có khu nghĩa địa - tôi nói - Vào những đêm trái gió trở trời, tôi thường nhìn thấy những đốm sáng mang hình thù rất kỳ dị cứ lập lòe trên những ngôi mộ. Người ta gọi đó là ma trơi…
– Vậy là cả ông và tôi đều đã đối mặt với ma - Khoa nói - thế thì dù căn phòng này có ma thật, chúng ta đâu có ngán!
Nói thế thôi, chứ những đêm hai thằng đều ngủ ở phòng thì không sao, nhưng cứ mỗi lần tôi đi công tác qua đêm không về, Trần Đăng Khoa lại ôm chăn màn lên phòng trực ban ngủ nhờ. Còn tôi, hôm nào Khoa đi công tác qua đêm, tôi lại chống lại nỗi sợ bằng cách cứ chong đèn suốt đêm ngồi viết hoặc đọc một cuốn sách nào đó.
Từ ngày chúng tôi đến ở căn phòng có “ma”, nơi khuất nẻo nhất cơ quan Bộ Tư lệnh thì “sinh khí” chừng như cứ sáng sủa, hanh thông dần lên. Nó trở thành nơi hội tụ của nhiều anh em yêu thích văn học trong cơ quan. Mỗi lần tôi hoặc Khoa được đăng một bài thơ hay một truyện ngắn thì hôm ấy người nọ truyền tin cho người kia, rồi cả cơ quan biết, cứ bàn tán xôn xao.
Căn phòng có “ma” thì thế nào cũng diễn ra một cuộc liên hoan khao nhuận bút. Nói là khao nhưng thực ra nhiều hôm anh em bạn bè không để chúng tôi phải chi tiền nhuận bút, họ tự ra chợ mua thức ăn mang đến nấu nướng bày biện ăn uống vui vẻ gọi là mừng cho chúng tôi có thêm sức khỏe mà viết.
Hình như căn phòng có “ma” đang có những dấu hiệu giúp chúng tôi thăng hoa thật. Tại đây, Trần Đăng Khoa đã viết những bài thơ quan trọng nhất, đánh dấu một giai đoạn sáng tác mới của anh trong vai trò nhà thơ chiến sĩ, đó là các bài Thơ tình của người lính biển, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn, Cây bão táp trên đảo Nam Yết, Lính đảo hát tình ca trên đảo… Cũng tại căn phòng này, Trần Đăng Khoa bắt đầu ghé sang văn xuôi bằng bản thảo tiểu thuyết Đảo chìm. Khoa cứ viết xong một chương lại bắt tôi dừng mọi việc lại nghe anh đọc và xin một vài lời góp ý.
Tôi cũng vậy, mỗi khi viết xong một truyện ngắn hay một bút ký lại đọc cho Khoa nghe, và thường rất thích nghe lời góp ý của Khoa. Những góp ý của Khoa đôi khi hơi thiên về cảm tính, nhưng lại có những phát kiến rất sắc sảo và độc đáo. Đến thời kỳ thơ của Khoa và truyện ngắn của tôi có biểu hiện “bùng phát” trên các báo và tạp chí, người ta không gọi nơi ở của chúng tôi là căn phòng có “ma” nữa, họ chuyển sang gọi là căn phòng “phát lộc”, căn phòng “vượng khí văn chương” một cách rất tự nhiên.
Từ bấy đến nay đã 30 năm. Trần Đăng Khoa và tôi bây giờ đều sống ở Hà Nội. Tuổi thì cũng đã qua ngũ tuần chuẩn bị lên lão 60. Thỉnh thoảng gặp nhau, nói về những kỷ niệm thời mặc áo lính màu xanh nước biển, cái mà chúng tôi nhớ nhất, có nhiều điều để nói nhất, ấy chính là căn phòng có “ma”
LÊ HOÀI NAM