Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh trả lời chất vấn: Không muốn "thoát nghèo" vì cuộc sống vẫn rất khó khăn

Từ 14 giờ 30 ngày 6-6, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh bắt đầu trả lời chất vấn trước Quốc hội.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban dân tộc Hầu A Lềnh lần đầu trả lời chất vấn, chiều 6-6. Ảnh: QUANG PHÚC
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban dân tộc Hầu A Lềnh lần đầu trả lời chất vấn, chiều 6-6. Ảnh: QUANG PHÚC

Trả lời câu hỏi của ĐB Nguyễn Lân Hiếu (Bình Định) liên quan đến câu chuyện có hơn 2,1 triệu người không được hưởng bảo hiểm y tế, Bộ trưởng Hầu A Lềnh cho biết, hiện nay, Bộ Y tế đang sửa đổi Nghị định 146 (quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế -PV). Trong quá trình soạn thảo sửa đổi Nghị định 146, Ủy ban Dân tộc cũng có góp ý đưa 2,1 triệu người này vào đối tượng hưởng bảo hiểm y tế. Hiện nay, Bộ Y tế đang tiếp thu các ý kiến của bộ, ngành để đưa vào dự thảo Nghị định 146 sửa đổi.

Trả lời thêm ý kiến của ĐB Nguyễn Lân Hiếu về việc trong những năm qua, hơn 2,1 triệu người không hưởng bảo hiểm y tế thì có mắc bệnh hiểm nghèo, Bộ trưởng cho rằng, đây là vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên môn của y tế, cần có rà soát, tổng kết số liệu và Ủy ban Dân tộc chưa tổng hợp được ngay. Bộ trưởng hứa sẽ phối hợp với Bộ Y tế để rà soát, tổng hợp sau.

Quang cảnh phiên chất vấn chiều 6-6. Ảnh: QUANG PHÚC

Quang cảnh phiên chất vấn chiều 6-6. Ảnh: QUANG PHÚC

Bà con không muốn "thoát nghèo" vì cuộc sống vẫn rất khó khăn

Theo ĐB Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp), chúng ta có nhiều chính sách dành cho đồng bào nghèo nhưng một bộ phận không muốn thoát nghèo. "Vậy đâu là giải pháp để khắc phục?", ĐB chất vấn.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Hầu A Lềnh cho biết, hiện tượng không muốn thoát nghèo là có thật, do nhiều yếu tố, như: đã thoát nghèo nhưng cuộc sống vẫn rất khó khăn. Chuẩn hộ nghèo hiện nay là thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 1,5 triệu đồng trở xuống ở nông thôn và thiếu hụt từ 3 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên; chuẩn hộ cận nghèo là có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 1,5 triệu đồng trở xuống và thiếu hụt dưới 3 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản. Chuẩn nghèo và cận nghèo không chênh nhau lắm, nên nếu "thoát nghèo" thì không còn được hưởng các chính sách cho hộ nghèo, kể cả việc học hành của con cái.

Cũng theo ông Hầu A Lềnh, nguyên tắc giảm nghèo đã được ban hành, nhưng công tác thống kê, rà soát hộ nghèo của các địa phương phải hết sức khách quan, thoát nghèo thì bảo đảm bà con không còn quá khó khăn. Bên cạnh đó là công tác tuyên truyền. Thực tế, cũng có nhiều người tự nguyện ra khỏi danh sách hộ nghèo.

Bộ trưởng cũng cho rằng, tiêu chí hộ nghèo cũng cần sát thực tiễn hơn, làm sao để khi đã thoát nghèo thì bà con được yên tâm với cuộc sống của mình.

Cần có chính sách đủ hấp dẫn các nhà đầu tư

ĐB Hoàng Thị Thanh Thúy (Tây Ninh) cho rằng, chính sách dân tộc còn tản mát ở nhiều văn bản, còn chồng chéo, nguồn lực còn phân tán nên chưa phát huy hiệu quả, vì việc này như “cho dầu vào đèn, cháy hết lại đổ dầu cho đèn khỏi tắt”.

Đại biểu Hoàng Thị Thanh Thúy (Tây Ninh) chất vấn chiều 6-6. Ảnh: QUANG PHÚC

Đại biểu Hoàng Thị Thanh Thúy (Tây Ninh) chất vấn chiều 6-6. Ảnh: QUANG PHÚC

Thừa nhận có thực trạng này, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh cho biết Ủy ban Dân tộc đã đề xuất Thủ tướng và được Thủ tướng giao nhiệm vụ này. Hiện nay, Ủy ban Dân tộc đang thực hiện đề án rà soát các chính sách dân tộc liên quan và trình Chính phủ cuối năm nay.

Cũng theo Bộ trưởng, quan điểm của ông là “không bỏ ai lại” nhưng chính sách đầu tư vùng dân tộc cũng phải có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải vì sẽ không hiệu quả.

ĐB Phạm Trọng Nghĩa (Lạng Sơn) nêu câu hỏi: Đến nay Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc đã đảm nhận 1/2 nhiệm kỳ, vấn đề trăn trở nhất của Bộ trưởng là gì và giải pháp cho vấn đề đó trong thời gian tới?

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh cho rằng, mọi chính sách, nguồn lực rất quan trọng. Nhưng, nếu không có con người thì cũng sẽ không làm được nhiều điều. Do đó, ông trăn trở nhất là vấn đề giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số, phải đầu tư thỏa đáng cho lĩnh vực này. Trong đó có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, thu hút cán bộ là người dân tộc thiểu số.

Cũng theo Bộ trưởng, hiện nay chưa có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào vùng khó, do chính sách đầu tư chưa đủ mạnh để thu hút đầu tư, bao gồm cả chính sách đất đai. Tới đây, Ủy ban Dân tộc tiếp tục rà soát, tham mưu Chính phủ có chính sách đủ hấp dẫn các nhà đầu tư.

Bố trí 104.000 tỷ đồng thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia

ĐB Vương Thị Hương (Hà Giang) chất vấn việc triển khai nghị quyết của Quốc hội về chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2021-2030.

Đại biểu Vương Thị Hương (Hà Giang) chất vấn chiều 6-6. Ảnh: QUANG PHÚC

Đại biểu Vương Thị Hương (Hà Giang) chất vấn chiều 6-6. Ảnh: QUANG PHÚC

Bộ trưởng Hầu A Lềnh cho biết về bố trí vốn, theo nghị quyết được Quốc hội phê duyệt, đến nay Ủy ban Dân tộc đã tham mưu Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội để bố trí đủ vốn 104.000 tỷ đồng cho giai đoạn từ nay đến 2025, nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, còn một số nguồn vốn khác như vốn tín dụng 19.700 tỷ đồng, vốn địa phương đối ứng trên 10.000 tỷ đồng, huy động vốn ngoài ngân sách hơn 2.000 tỷ đồng từ nguồn ODA và khuyến khích một số nguồn vốn xã hội khác. Việc bố trí nguồn vốn đã đủ để triển khai theo nghị quyết Quốc hội phê duyệt.

Về vốn ODA, Ủy ban Dân tộc đã có một dự án phối hợp với các bộ, ngành huy động ngân sách gần 9.000 tỷ đồng, khảo sát để đầu tư 75 tuyến đường cho các xã đặc biệt khó khăn. Nhưng, năm 2022, do việc đàm phán gặp nhiều vướng mắc do vốn chưa được giải ngân, áp lực về trần nợ công nên các bộ, ngành có ý kiến cân nhắc dự án này vào thời điểm thích hợp. Vì vậy, dự án này đang tạm dừng. Tới đây, Ủy ban Dân tộc sẽ nghiên cứu, đàm phán lại và cố gắng thực hiện dự án từ nay đến 2025.

Đến năm 2025: Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào

ĐB Dương Tấn Quân (Bà Rịa - Vũng Tàu) chất vấn về tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số, khắc phục tình trạng du canh, du cư tự phát, chặt phá rừng; tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất của vùng đồng bào dân tộc thiểu số là những vấn đề nhức nhối nhiều năm nay nhưng chưa được giải quyết dứt điểm.

ĐB Dương Tấn Quân (Bà Rịa - Vũng Tàu) chất vấn chiều 6-6. Ảnh: QUANG PHÚC

ĐB Dương Tấn Quân (Bà Rịa - Vũng Tàu) chất vấn chiều 6-6. Ảnh: QUANG PHÚC

Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Hầu A Lềnh, đây là vấn đề lớn và là nhu cầu thực tế. Qua rà soát, nhu cầu đất ở là trên 24.000 hộ và đất sản xuất là trên 43.000 hộ. Vừa qua, Ủy ban Dân tộc đã trình Thủ tướng quyết định 1719 với chỉ tiêu năm 2025 giải quyết 60% nhu cầu đất ở cho người dân, tập trung vùng đồng bào dân tộc khó khăn nhất, chưa được hỗ trợ bất cứ chính sách nào. Giai đoạn 2026-2030 giải quyết 40% còn lại.

Về đất sản xuất, qua thống kê có nhiều địa phương có nguồn quỹ đất, xây dựng mô hình dân cư tập trung. Tuy nhiên, nhiều địa phương không còn quỹ đất nên cần giải pháp thống nhất các bộ ngành. Đó là việc rà soát đất nông lâm trường để lấy đất cho đồng bào sản xuất, nhưng việc này thực hiện còn chậm.

Trước đó, báo cáo của Ủy ban Dân tộc cũng đề ra mục tiêu tới năm 2025 sẽ giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào, trong đó dự kiến sẽ giải quyết đất ở cho hơn 17.400 hộ, giải quyết trực tiếp đất sản xuất cho hơn 47.200 hộ và giải quyết sinh kế cho 271.800 hộ.

Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh lần đầu trả lời chất vấn. Ảnh: QUANG PHÚC

Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh lần đầu trả lời chất vấn. Ảnh: QUANG PHÚC

ĐB Ma Thị Thúy (Tuyên Quang) chất vấn Ủy ban Dân tộc đã tham mưu cho Chính phủ sửa đổi Nghị định 05 về công tác dân tộc hay chưa, bởi theo ĐB, nghị định này đã ban hành 12 năm, hiện nay, có nhiều bất cập.

Đại biểu Ma Thị Thúy (Tuyên Quang) chất vấn chiều 6-6. Ảnh: QUANG PHÚC

Đại biểu Ma Thị Thúy (Tuyên Quang) chất vấn chiều 6-6. Ảnh: QUANG PHÚC

ĐB Mai Văn Hải (Thanh Hóa) đề nghị Bộ trưởng, Chủ nhiệm Hầu A Lềnh làm rõ đâu là vướng mắc lớn nhất và hướng khắc phục thời gian tới trong triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi?

Trao đổi về giải pháp, Bộ trưởng cho biết, trong quá trình thực hiện cần tăng cường kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho địa phương thực hiện. Cùng với đó, tập trung các nguồn lực để thực hiện cho hiệu quả các chương trình này.

Về thực hiện Nghị định 05, Bộ trưởng đánh giá, các chính sách dân tộc và công tác dân tộc được các bộ ngành, địa phương triển khai nghiêm túc. Các bộ, ngành, địa phương đã ban hành hơn 1.000 văn bản để thực hiện nghị định này. Bộ trưởng cho biết, năm 2021-2022, Ủy ban Dân tộc đã đánh giá thực hiện nghị định và báo cáo Thủ tướng. Sau đó, Ủy ban Dân tộc sẽ tổng kết để cập nhật, bổ sung những quy định cho phù hợp với thực tiễn. Theo Bộ trưởng có 3 nhóm vấn đề cần xử lý đó là những vấn đề khó khăn, vướng mắc đã được các bộ ngành có văn bản giải đáp, hướng dẫn các địa phương thực hiện tháo gỡ.

Điều hành phiên chất vấn, Chủ tịch Quốc hội đề nghị Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh làm rõ những vướng mắc trong thời gian qua liên quan đến đối tượng thụ hưởng các chính sách. Việc thực hiện các chính sách thụ hưởng theo đối tượng hay theo địa bàn, hay cả hai; hoặc trên cơ sở đối tượng, cộng thêm địa bàn. Nếu phân loại như 12 chính sách, có khoảng 2 triệu người không được hỗ trợ chính sách bảo hiểm xã hội, đặt ra vấn đề chính sách nên theo khu vực hay theo đối tượng, đề nghị bộ trưởng làm rõ. Hiện nay, Hội đồng dân tộc của Quốc hội cũng đang bàn vấn đề này, đề nghị đại biểu Quốc hội thảo luận thêm.

“Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh lần đầu trả lời nhưng rất suôn sẻ”, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhận xét.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ điều hành phiên chất vấn chiều 6-6. Ảnh: QUANG PHÚC

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ điều hành phiên chất vấn chiều 6-6. Ảnh: QUANG PHÚC

2,1 triệu đồng bào dân tộc không được hưởng bảo hiểm xã hội

ĐB Dương Tấn Quân (Bà Rịa - Vũng Tàu) đề nghị Bộ trưởng, Chủ nhiệm chỉ rõ những khó khăn, vướng mắc trong chính sách dân tộc liên quan đến phân định xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi; đánh giá tác động của Quyết định 861 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách các xã khu vực I, II, III.

Trả lời nội dung này, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Hầu A Lềnh cho biết, Nghị quyết 120 của Quốc hội đã giao Chính phủ quy định tiêu chí cụ thể để xác định địa bàn trọng tâm, trọng điểm. Trên tinh thần đó, Ủy ban Dân tộc đã tham mưu Chính phủ ban hành Quyết định số 33 để xác định tiêu chí phân định theo 3 khu vực theo trình độ phát triển. Quá trình phân định dựa trên một số tiêu chí: những xã, thôn có 15% dân số trở lên là người dân tộc thiểu số thì xác định là xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số; xã có tỷ lệ hộ nghèo 15% trở lên thì là xã nghèo.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc cho biết, với những xã có tỷ lệ hộ nghèo dưới 15% thì không còn là xã nghèo nữa. Tuy nhiên, trong thực tế cũng xuất hiện một số bất cập. Về tác động của quyết định số 861, các xã không còn là vùng đặc biệt khó khăn nữa, không được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư của giai đoạn 2016-2020, đã có tác động, ảnh hưởng đến 12 chính sách. Chính phủ đã giao các bộ, ngành điều chỉnh, sửa đổi một số quy định, thông tư có liên quan đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có chính sách bảo hiểm y tế với người dân tộc thiểu số. Hiện có khoảng 2,1 triệu người không được hưởng bảo hiểm xã hội. Bộ Y tế đang chủ trì, phối hợp với Bảo hiểm Xã hội Việt Nam và các cơ quan đang sửa Nghị định 146, trong đó có bổ sung, đưa các đối tượng thuộc diện không ở các xã đặc biệt khó khăn nhưng vẫn là hộ dân tộc thiểu số khó khăn vào diện tiếp tục thụ hưởng. Dự thảo đang được xin ý kiến các cơ quan liên quan để trình Chính phủ trong thời gian tới.

Đề nghị sớm xây dựng Luật Dân tộc

Trả lời chất vấn của ĐB Nguyễn Tạo (Lâm Đồng) về sớm ban hành Luật Dân tộc, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh cho biết, từ năm 2007, Ủy ban Dân tộc đã đề xuất, báo cáo Quốc hội khóa XIII. Tuy nhiên, để bảo đảm không bị chồng chéo với các cơ chế, chính sách về công tác dân tộc hiện nay thì cần phải có thêm thời gian nghiên cứu vì công tác dân tộc là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, không riêng bộ, ngành nào. Tuy nhiên, quan điểm của Ủy ban Dân tộc là rất cần có Luật Dân tộc.

Gần đây, Đảng đoàn Quốc hội đã giao Hội đồng Dân tộc của Quốc hội nghiên cứu xây dựng Luật Dân tộc, Ủy ban Dân tộc sẽ phối hợp, chuyển tài liệu cho Hội đồng Dân tộc để nghiên cứu, xây dựng.

Phiên chất vấn chiều 6-6. Ảnh: QUANG PHÚC

Phiên chất vấn chiều 6-6. Ảnh: QUANG PHÚC

Phát biểu trước khi bắt đầu trả lời chất vấn, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh cho biết, công tác dân tộc là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài, cấp bách của Đảng, Nhà nước, được thực hiện thông qua chủ trương của Đảng, các quy định pháp luật và hệ thống chính sách liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực, góp phần quan trọng trong thực hiện chiến lược đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam. Nhiều chính sách được ban hành cho vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và người dân tộc thiểu số đã làm cho kinh tế - xã hội của vùng đồng bào các tộc thiểu số có bước phát triển rõ rệt.

Quang cảnh phiên chất vấn. Ảnh: QUANG PHÚC

Quang cảnh phiên chất vấn. Ảnh: QUANG PHÚC

Nội dung chất vấn nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực dân tộc gồm: trách nhiệm của Ủy ban Dân tộc và công tác phối hợp với các bộ, ngành trong triển khai thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia (xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; công tác giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025; phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi giai đoạn 2021-2030); chính sách thu hút nguồn lực hỗ trợ đầu tư phát triển vùng đồng bào DTTS và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong chính sách dân tộc liên quan đến phân định các xã, thôn vùng đồng bào DTTS và miền núi; việc giải quyết khó khăn về đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc, khắc phục tình trạng du cư, du canh tự phát, chặt phá rừng.

Báo cáo của Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc gửi đến đại biểu (ĐB) Quốc hội trước khi khi trả lời chất vấn cho thấy, đời sống và sản xuất của một bộ phận người dân di cư tự do còn gặp nhiều khó khăn, việc phục hồi sản xuất chưa bền vững, nhiều hộ dân chưa được hưởng các chính sách an sinh xã hội do chưa được công nhận tư cách pháp nhân (chưa được đăng ký hộ khẩu).

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh. Ảnh: QUANG PHÚC

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh. Ảnh: QUANG PHÚC

Bên cạnh đó, mật độ dân số cao, sức ép vào rừng ngày càng tăng, điển hình như vùng miền núi thiếu đất sản xuất nông nghiệp và nơi có dân di cư tự do; hoặc do yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhiều diện tích rừng phải chuyển đổi mục đích. Năm 2022, số vụ phá rừng là 3.418 vụ, tăng 538 vụ (tăng 19%), diện tích bị tác động là 952ha, giảm 74ha (giảm 7%) so với cùng kỳ năm 2021. Một số điểm nóng về tình trạng phá rừng tại một số tỉnh như: Đắk Lắk, Lâm Đồng, Nghệ An, Cao Bằng, Bắc Kạn... Nguyên nhân chủ yếu là phá rừng lấy đất sản xuất, trồng cây nông, lâm nghiệp.

Báo cáo đề ra giải pháp khắc phục thời gian tới là tập trung triển khai chương trình mục tiêu quốc gia, đẩy nhanh giải ngân nguồn vốn; thực hiện hỗ trợ đất ở, đất sản xuất chuyển đổi nghề cho các hộ đồng bào DTTS chưa có hoặc thiếu đất ở, đất sản xuất.

Cụ thể mục tiêu tới năm 2025 sẽ giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào, trong đó dự kiến sẽ giải quyết đất ở cho hơn 17.400 hộ, giải quyết trực tiếp đất sản xuất cho hơn 47.200 hộ và giải quyết sinh kế cho 271.800 hộ.

Đối với cơ chế sử dụng vốn đầu tư công hỗ trợ trực tiếp hộ gia đình, Chính phủ đã giao Bộ KH-ĐT tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, tham mưu cho Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 27/2022/NĐ-CP, trong đó bổ sung cơ chế đặc thù và quy trình, thủ tục thanh quyết toán.

Bên cạnh đó, Ủy ban Dân tộc cũng phối hợp với Bộ NN-PTNT và các bộ, ngành, địa phương triển khai cơ chế chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào DTTS; hạn chế tối đa chuyển đổi mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích ngoài lâm nghiệp; hoàn thành việc giao đất, giao rừng, cho thuê rừng gắn với cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp; đảm bảo mục tiêu bảo vệ và phát triển bền vững đối với toàn bộ 14,6 triệu ha rừng hiện có và diện tích rừng được tạo mới; giảm tối thiểu 10%/năm về số vụ vi phạm và diện tích rừng bị thiệt hại so với năm 2020...

Tin cùng chuyên mục