Chuyện của hai người “nhảy núi”

Chuyện của hai người “nhảy núi”

Tuổi trẻ của ông Ayun Hới gắn liền với hai cuộc chiến tranh chống Mỹ và bảo vệ biên giới Tây Nam. Bị mất một con mắt, người thương binh trở về với làng quê Tây Nguyên. Nay ông đã 77 tuổi, tóc điểm bạc, lưng hơi còng nhưng vẫn còn nhanh nhẹn. Lòng nhân ái và nghị lực đã giúp ông bước qua tuổi tác, tiếp tục lao động, kiếm cái ăn cho mình và cho đàn con nuôi được no đủ, theo chúng bạn học hành được tốt. Căn nhà gỗ của ông ở làng Ver xã IaKo, huyện Chư Sê (tỉnh Gia Lai) lúc nào cũng đầy ắp tiếng cười...

Anh cán bộ bị “bắt”

Chuyện của hai người “nhảy núi” ảnh 1

Gia đình Ayun Hới

60 năm về trước, Ayun Hới căm thù giặc cướp nước, đã tạm biệt bản làng cùng gia đình để “nhảy núi” vào rừng theo bộ đội Cụ Hồ. Năm tháng chiến tranh đã tôi luyện chàng thanh niên người dân tộc Êđê trưởng thành nhiều mặt, từ chiến sĩ giao liên “tò te” đến năm 1968, anh trở thành sĩ quan quân đội.

Trong một lần huấn luyện chiến sĩ mới, cô thiếu nữ Ymi người Jrai ở làng Ver - người mới được đơn vị  tiếp nhận - đã đem lòng yêu thương và muốn “bắt” cán bộ Hới làm chồng. Đôi mắt đen của Ymi lúc nào cũng hướng về Hới như cây rừng ngày ngày hướng về ánh nắng mặt trời. Mối tình đã có kết thúc đẹp khi đơn vị đứng ra tổ chức đám cưới cho họ thành vợ thành chồng.

Sau giải phóng, Ymi trở về bản làng hăng say lao động sản xuất và giúp đỡ, chỉ bảo bà con cách trồng lúa nước, trồng cây công nghiệp dài ngày, đan xen trồng các loại cây khác như cà phê, tiêu và cao su… để “lấy ngắn nuôi dài”. Còn Ayun Hới thì cùng đơn vị tiếp tục lên đường, làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia. Hai đứa con của ông bà đều sinh ra khi không có mặt cha và do sức yếu nên lần lượt về với Atâu (ông bà, tổ tiên). Khi bị thương mất một con mắt, Ayun Hới được cấp trên cho xuất ngũ.

Những đứa con “trời cho”

Một buổi sáng như mọi ngày bình thường khác, ăn tạm mấy củ mì (sắn), Ayun Hới dắt bò và vác cuốc đi làm. Vừa đến đầu làng, Ayun Hới bàng hoàng khi nhìn thấy cảnh bé Đinh Siêk (người Ba Na) không một tấm vải che thân, nằm thoi thóp trên sàn nhà như không còn sự sống. Ngồi bên cạnh, cha đứa bé đau khổ, nhìn con trong tuyệt vọng.

Thấy vậy, Ayun Hới liền cúi xuống bồng con bé lên tay; nhiều người đứng ra ngăn cản, riêng bố đẻ của Đinh Siêk xẵng giọng: “Mẹ nó chết rồi, cứ cho nó theo mẹ để bú theo tục lệ làng...”. Hới nói: “Mày không muốn nuôi nó nữa thì để tao nuôi, để nó chết là có tội, công an bắt đi tù đừng có trách”. Nói xong, ông lấy áo mình bọc lấy đứa trẻ rồi chạy một mạch về nhà.

Thấy chồng đưa về một đứa bé tím ngắt, trên mình đầy rẫy những vết cắn của kiến, bò chét, vợ ông hốt hoảng: “Anh mau đem trả lại cho mẹ nó nuôi, mình không cứu được nó là có tội lớn đó, em sợ lắm!”. Hới quả quyết: “Mẹ nó về với Atâu rồi, cha nó không nuôi được thì mình cứu và nuôi bé. Từ nay nó là con của vợ chồng mình rồi, bà mau đun nước nóng tắm rửa cho nó, còn tôi ra quán mua ít sữa cho nó ăn”.

Căn nhà nhỏ hôm đó bận rộn hơn các ngày thường bởi có thêm một thành viên. Hàng xóm thấy lạ liền truyền nhau đến xem sự kiện có một không hai, trong làng đông kín. Có người nói: “Ông thương binh nuôi mình đã khó, nhặt thêm nó làm gì cho khổ, hãy đem nó bỏ vào rừng để con mang, con hoảng cho nó bú chứ ”. Mặc cho những lời bàn tán, đứa trẻ vẫn được tắm rửa sạch sẽ, mặc ấm, uống sữa. Được một lúc, da nó hồng hào trở lại, vợ chồng ông thở phào nhẹ nhõm.

Hai năm sau, khi Ayun Hới đang từ rẫy tắt ngang qua lô cao su về nhà, ông nghe từ gốc bụi le bên đường có tiếng khóc thất thanh của trẻ nhỏ. Tới nơi, Hới nhìn thấy một phụ nữ người Kinh, chị thều thào: “Tôi tên là H, công nhân của xí nghiệp. Khi tôi mang bầu thì cha đứa trẻ bỏ trốn, tôi phải lánh đến đây để sinh con. Xin ông làm phước nuôi cháu”.

Vậy là gia đình ông có thêm một đứa con và ông bà đặt tên cho nó là Cu – theo cách gọi thân mật của người Kinh với con trai. Cứ thế, như một lẽ tự nhiên, sau này những đứa trẻ không cha, không mẹ, đủ các dân tộc như Êđê, Ia rai, Bah Na, Kinh… đều được mọi người giới thiệu cho ông bà đến nhận hoặc đem đến nhờ ông bà nuôi hộ. Ông nói vui với chúng tôi: “Âu cũng là số phận cả, mình có duyên với những đứa nhỏ trời cho”. Còn bà Ymi thì nói: “Chúng nó hạnh phúc, no đủ là cái bụng sung sướng lắm!”.

Tôi hỏi: “Ông bà đã đem về nuôi được bao nhiêu đứa con trời cho rồi?”. Cười tươi như sau vụ mùa thu hoạch lớn, vợ chồng Ayun trả lời: “Cứ một đứa thì bỏ một hòn cuội vào hũ để đánh dấu ngày mình sinh nó, cũng được hơn hai chục hòn cuội rồi. Hiện nay vợ chồng mình còn nuôi bốn đứa nữa. Những đứa lớn đã có vợ, có chồng; không kể văn hóa, ngôn ngữ, dân tộc chúng nó đều thương yêu nhau, giúp đỡ nhau làm ăn, lúc gia đình có có việc gì là chúng nó tụ tập về đông vui như ngày hội...”. Nghe ông bà kể chuyện, tôi cứ nghĩ mình đang ở trong một “đại gia đình các dân tộc Việt Nam” thu nhỏ .

Người hạnh phúc nhất…

Hạnh phúc thì thật là lớn lao, song cũng ít ai biết được để nuôi đàn con yêu quý đó, vợ chồng người thương binh đã vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ. Tất cả cuộc sống của đàn con và gia đình đều phụ thuộc vào sức khỏe và đôi bàn tay cần cù lao động của ông, cộng với đồng lương hưu ít ỏi của hai vợ chồng.

Ông tâm sự: “Ngày còn ở bộ đội, được học chính trị, tôi còn nhớ câu nói của cụ Các Mác, đại ý là Ai làm cho nhiều người hạnh phúc nhất, thì người đó hạnh phúc nhất. Nhiều ngày trời trở gió vết thương đau buốt, tôi định nghỉ chút đi chơi thăm bạn bè và uống mấy ly rượu cho vui nhưng lại sợ lũ con dại không có cái ăn; bụng nó đói, đòi ăn thì cái bụng mình làm sao mà ngồi uống rượu và nói chuyện vui được!”. Vậy là quanh năm suốt tháng, trời nắng cũng như mưa, ông tần tảo lao động. Niềm vui - hạnh phúc của ông là công việc và sự khôn lớn của các con nhỏ.

Trao đổi với chúng tôi, chị Sui Êng (con nuôi của ông Hới) cảm động: “Khôn lớn, trưởng thành và có được cuộc sống như bây giờ, tôi cảm thấy công ơn ba mẹ tôi lớn lắm, như núi cao phía trước làng Ver”.

Còn ông Rơmah Choát – Chủ tịch xã Ia Ko - thì tâm sự: “Vợ chồng Ayun Hới tốt cái bụng quá, nhờ vợ chồng nó mà trẻ nhỏ lang thang ở trong khu vực này nhiều đứa được cứu sống và được nuôi nấng, học hành, trưởng thành, lại còn giúp cho bà con trong làng biết làm ăn, ổn định cuộc sống. Bọn mình phải học tập nó nhiều nhiều…”.

Chia tay ra về, nhìn nụ cười của vợ chồng Ayun Hới, tôi hiểu rằng họ đang là những người hạnh phúc nhất….

 Ái Hàn    

Tin cùng chuyên mục