| |
Bây giờ, bóng đá sẽ không còn là bóng đá nữa nếu chúng ta bỏ qua những ứng dụng khoa học kỹ thuật, những hệ thống đấu pháp siêu đẳng hoặc những số liệu thống kê chính xác gần như tuyệt đối. Nói đúng hơn thì bóng đá khi ấy sẽ trở về với cội nguồn của nó, chỉ còn là một trò chơi thuần túy.
Tập hợp 11 cầu thủ thiên tài trên sân mà nếu không được hỗ trợ bởi những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, không được truyền đạt chiến thuật hợp lý, thì chắc chắn phải thua tan nát, như trẻ con đá bóng với người lớn vậy. Ở mức độ đơn giản nhất, chỉ cần tưởng tượng trận đấu mà bạn đang xem trên màn ảnh truyền hình không được các chuyên viên kỹ thuật cung cấp bất kỳ số liệu chuyên môn nào. Kết luận rút ra chắc chắn sẽ khác xa so với kết luận của chính bạn, nếu xem trận đấu ấy với những thống kê thú vị đi kèm.
Chuyên sâu hơn một tí, các HLV lỗi lạc như Arsene Wenger, Jose Mourinho hoặc Joachim Loew đều tận dụng được sự hậu thuẫn của hàng trăm ngàn con số thống kê để đạt được thành công mong muốn trong nghề huấn luyện. Ngoài ra, họ còn được hỗ trợ bởi hàng loạt hệ thống máy móc hiện đại và các chuyên gia ở đẳng cấp cao, trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Nhưng tóm lại, những gì chúng ta đang nói chính là thứ bóng đá của HLV Valery Lobanovsky, cách đây hơn 1/4 thế kỷ.
Tổng cộng, ông dẫn dắt CLB Dynamo Kiev 21 năm trong 2 giai đoạn khác nhau, và xen kẽ với việc dẫn dắt Dynamo trong 16 năm đầu là 3 lần kiêm nhiệm ghế HLV trưởng đội tuyển Liên Xô. Lần cuối cùng Lobanovsky dẫn dắt đội tuyển Liên Xô chính là lúc mà ông thành công nhất, dấu ấn chuyên môn mà ông để lại trên sân cỏ quốc tế cũng sâu đậm nhất.
Khi ấy, Lobanovsky nhận ghế HLV trưởng ĐTQG chỉ vài tháng trước khi World Cup 1986 bắt đầu, và cả thế giới ngỡ ngàng trước lối chơi pressing lạ lẫm mà đội Liên Xô thể hiện. Họ đứng đầu bảng, trên cả Pháp – vốn là ĐKVĐ Euro và có Michel Platini ở đỉnh cao phong độ trong đội hình. Platini ở thời điểm ấy đang giữ “Quả bóng vàng châu Âu”, lần thứ 3 liên tiếp. Vài tháng sau đó, khi “Quả bóng vàng” không còn thuộc về Platini nữa, nó lại được trao cho Igor Belanov - cầu thủ của Lobanovsky ở cả CLB lẫn ĐTQG.
Vì sai lầm của trọng tài mà Liên Xô thua đau ở trận gặp Bỉ trong giai đoạn knock-out của World Cup 1986 (Bỉ sau đó vào tận bán kết). Hai năm sau, Liên Xô trở thành đội bóng đầu tiên trong lịch sử 4 lần lọt vào trận chung kết Euro.
Thành tựu với Liên Xô
Với đẳng cấp không quá cao của bóng đá Liên Xô (nước này chưa đáng gọi là cường quốc bóng đá), thì bảng thành tích của HLV Valery Lobanovsky rất đáng ghi nhận. Hai lần hiếm hoi mà bóng đá Liên Xô chiến thắng trên đấu trường 3 cúp châu Âu đều là thành quả của Lobanovsky (Dynamo Kiev đoạt cúp C2 các năm 1975, 1986).
Hai “Quả bóng vàng châu Âu” – Belanov và Oleg Blokhin – đều là cầu thủ do Lobanovsky huấn luyện. Nhưng điều đáng nói nhất về Lobanovsky là lối chơi mà ông áp dụng, chứ không phải các thành tích vốn cũng đáng phục. Như đã nêu trên: lối chơi của đội Liên Xô tại World Cup 1986 và Euro 1988 làm cả thế giới ngạc nhiên vì nó lạ lẫm, khác hẳn mọi lối chơi từng được biết đến ở thời điểm ấy.
Bất kể năng lực hoặc danh tiếng của các cầu thủ trong tay, nếu một đội kiểm soát bóng đến một tỷ lệ nhất định, chuyền chính xác đến một tỷ lệ nhất định, và mất bóng không nhiều hơn một con số định sẵn, thì chắc chắn đội ấy không thua. Đấy là quan điểm của Lobanovsky. Và để xác định các tỷ lệ, thông số cụ thể sao cho không thua, Lobanovsky dùng các trợ lý am hiểu kỹ thuật và hệ thống máy móc hiện đại, hơn là những tên tuổi lớn thuộc giới bóng đá.
Ông quan tâm đến ngưỡng chịu đựng tối đa về sức bền của cầu thủ hơn là kỹ thuật cá nhân, ông chuyên tâm lập trình, kiểm chứng hoặc phản biện các hệ thống đấu pháp, hơn là săn lùng cầu thủ tài năng.
Cứ thế, Lobanovsky giống như một HLV đi ngược dòng so với mọi xu thế chung của bóng đá thế giới trong thập niên 1980 - thập niên mà ai cũng cho là vàng son nhất của nghệ thuật nhồi bóng, với những cái tên bất hủ như Platini, Diego Maradona, Zico, Socrates, Ruud Gullit, Marco Van Basten.
THANH QUẾ
| |