Một trong nhiều nền tảng khởi đầu cho hành trình hơn 4.000 năm văn hiến của dân tộc Việt, chính là văn hóa Phùng Nguyên, mà trong đó những hiện vật khai quật được từ các di chỉ, đặc biệt là ngọc đá, khiến người ta phải ngỡ ngàng bởi vẻ đẹp diệu kỳ qua tài nghệ chế tác đá của người Phùng Nguyên xưa.
Ông Hoàng Xuân Chinh, GS-TS, nguyên Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam, một trong những nhà khảo cổ khai quật văn hóa Phùng Nguyên ở những năm 60 của thế kỷ XX, nhớ lại: “Khi khai quật các di chỉ Phùng Nguyên, hiện vật gốm được phát hiện nhiều nhất, sau đó là đá công cụ và đá trang sức. Tôi cho rằng gốm và đá trang sức Phùng Nguyên đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật ở mọi thời đại”.
Đã qua hơn 4.000 năm, các hiện vật lưu lại từ văn hóa Phùng Nguyên không nhiều, với các nhà sưu tầm cổ ngoạn trên khắp Việt Nam và cả thế giới, văn hóa Phùng Nguyên luôn là đề tài bàn luận thú vị. Mà trước mỗi thông tin, mỗi hiện vật ngọc đá gặp được liên quan đến văn hóa Phùng Nguyên, cứ như một chuyến hành trình ngược thời gian tìm về huyền thoại của những cư dân Việt cổ thời kỳ tiền dựng nước.
Bình minh của lịch sử
Di tích Phùng Nguyên tình cờ được phát hiện vào năm 1959 khi thi công một công trình thủy lợi trên địa bàn xã Kim Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Kể từ cuộc khai quật đầu tiên 1959 trở về sau, đã có hơn 60 di tích thuộc văn hóa Phùng Nguyên được phát hiện trên vùng đồng bằng sông Hồng và hơn phân nửa trong số ấy đã được khai quật. Các nhà khảo cổ học xác định niên đại văn hóa Phùng Nguyên vào khoảng cuối thời kỳ đồ đá mới, đầu thời kỳ đồ đồng, cách nay 4.000 năm đến 3.500 năm.
Văn hóa Phùng Nguyên phân bố dọc theo vùng đồng bằng trung du, nơi hợp lưu các dòng sông Thao, sông Lô, sông Đà, sông Hồng, sông Đáy… thuộc các tỉnh, thành Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh… Nhiều cuộc khai quật với số lượng hiện vật thu được rất đa dạng về chất liệu như gốm, đá công cụ, vũ khí, đá trang sức… là một tiền đề để ngành khảo cổ học Việt Nam ở những năm 60 có thêm nhiều phát hiện mới với các di chỉ nối sau văn hóa Phùng Nguyên như văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun, tiếp đến là Đông Sơn.
Sự liền mạch trong xâu chuỗi các nền văn hóa từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn thông qua hiện vật khai quật, đã chứng minh được sự hình thành phát triển của các bộ lạc thuộc chủ nhân văn hóa Phùng Nguyên gắn liền với sự phát triển nền văn minh sông Hồng, cũng như minh chứng rằng các bộ lạc thuộc văn hóa Phùng Nguyên chính là một trong những hạt nhân đầu tiên khởi hình nên nhà nước Văn Lang - Âu Lạc của các đời vua Hùng, được ví như ánh bình minh trong lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt.
Vẻ đẹp trang sức
* GS-TS Hoàng Xuân Chinh:
"Đá trang sức văn hóa Phùng Nguyên đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật ở mọi thời đại"
Trong số hiện vật khai quật từ các di chỉ, khu mộ táng, xưởng sản xuất… thuộc văn hóa Phùng Nguyên, thống kê có đến 92% số lượng hiện vật chế tác bằng đá, minh chứng đây là chất liệu chủ đạo gắn liền với đời sống của các bộ tộc người Phùng Nguyên xưa.
Trong đó, đá trang sức là mảng quan trọng, thể hiện sự tài hoa trong tính toán, chế tác, định hình nên một loại hình nghệ thuật độc đáo, mang đặc trưng rất riêng của văn hóa Phùng Nguyên, khác biệt hẳn với các nền văn hóa khác.
Con số hiện vật đá trang sức trong các lần khai quật được GS-TS Hoàng Xuân Chinh cụ thể rằng: “Trong di chỉ Phùng Nguyên chúng tôi thu được 540 mảnh vòng, 9 khuyên tai, 34 hạt chuỗi và 5 đồ trang sức khác”. Đây chỉ là con số khiêm tốn trong tổng số rất nhiều hiện vật trang sức phát hiện được gắn liền với văn hóa Phùng Nguyên. Dựa trên các hiện vật khảo cổ và từ các nhà sưu tầm ở Việt Nam, hầu hết đồ trang sức dùng chất liệu đá bán quý như thạch anh, ngọc lam, ngọc thạch, ngọc bích… và có điểm chung là được chế tác với kỹ thuật cực kỳ tinh xảo.
Trang sức Phùng Nguyên có kiểu dáng đa dạng, gồm chuỗi hạt, vòng đeo tay, khuyên tai, mặt ngọc… Trong các lần khai quật nhiều di chỉ thuộc văn hóa Phùng Nguyên, khảo cổ Việt Nam đã xác định được những công xưởng chế tác trang sức như ở Tràng Kênh, Gò Chè, Bãi Tự… với các hiện vật tìm được là mũi khoan, đá mài, bàn mài… để tạo nên các hiện vật được mài chuốt cầu kỳ, khoan cắt, tạo hình tinh tế bằng những đường cong hình học, những lối khoan tách lõi, khoan hai đầu được ứng dụng khéo léo lên mặt đá hình thành nên những tác phẩm nữ trang mà với khoa học kỹ thuật ngày nay cũng không dễ thực hiện được.
Dựa trên các hiện vật ngọc đá Phùng Nguyên, có thể thấy việc chế tác tốn rất nhiều thời gian và công sức. Nhưng các cuộc khai quật tại mỗi di chỉ thuộc văn hóa Phùng Nguyên đều gặp hàng trăm mảnh vòng đeo trang sức khác nhau, chứng tỏ rằng ở giai đoạn này con người đã biết chú trọng làm đẹp cho bản thân, điều này gợi về một thời kỳ thịnh vượng, nông nghiệp phát triển. Khi vụ mùa đến, người thợ thủ công chế tác nữ trang cũng tham gia sản xuất nông nghiệp. Khi vụ mùa kết thúc, lương thực dư thừa, đủ nuôi sống sung túc nhà nông và người thợ thủ công ở lúc nông nhàn, nên họ an tâm chế tác các vật phẩm trang sức quý giá.
Biểu trưng quyền lực
Cuộc sống con người thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên vẫn dựa theo xã hội công xã nguyên thủy. Nhưng thông qua các hiện vật ngọc đá Phùng Nguyên, chúng ta hiểu họ đã biết định hình cái đẹp ở một trình độ nhất định, có hiểu biết khoa học, kỹ thuật, kết hợp cơ khí trong chế tác như việc tạo mũi khoan, dùi đục, khoan tách lõi các hạt hình ống dài, kỹ thuật khoan đối xứng, mài dũa theo hình khối. Những kỹ thuật này đòi hỏi phải có bàn xoay, đặt mũi khoan hoặc bàn mài cố định và di chuyển miếng đá ngọc để tạo hình với tính chính xác cao, việc chế tác này đòi hỏi người thợ thủ công phải có sự am hiểu về hình học, toán học, mới có thể ứng dụng vào chế tác đồ trang sức, tạo nên vẻ đẹp hoàn hảo của ngọc đá Phùng Nguyên.
Trong số trang sức tìm được thuộc văn hóa Phùng Nguyên, có một số tượng người được chế tác làm vật đeo, với các chi tiết thể hiện rõ nét các bộ phận sinh thực khí nam và nữ, biểu trưng của tín ngưỡng phồn thực thường gặp trong xã hội nguyên thủy. Có nhiều thuyết lý giải về các hiện vật này, nhưng đa số đều có chung nhận định, đây là những hiện vật biểu trưng cho một tư duy tôn giáo nhất định, một khởi đầu của tôn giáo nguyên thủy.
Người Phùng Nguyên là cư dân nông nghiệp, chịu ảnh hưởng của thiên nhiên, của thần đá, thần mặt trời, sấm chớp, nên tôn thờ thiên nhiên, lấy vật tổ là các biểu tượng để thờ cúng chứ trong xã hội lúc này chưa biết thờ các nhân vật cụ thể. Do vậy việc phát hiện qua đá có kích thước nhỏ, hay nha chương (ya zhoang) ở di chỉ Xóm Rền và Phùng Nguyên, được các nhà khảo cổ xác định đây vừa là một loại vũ khí, nhưng cũng là biểu trưng quyền lực, lễ khí của người Phùng Nguyên xưa.
GS-TS Hoàng Xuân Chinh nhận định: “Các nha chương tìm được thuộc văn hóa Phùng Nguyên giống với nha chương được phát hiện ở nhiều di chỉ ở Trung Quốc như Thạch Mão (Thiểm Tây), Nhị Lý Đầu, Nhị Lý Cương (Hà Nam), Tam Tỉnh Đôi (Tứ Xuyên), Thạch Lô (Phúc Kiến)… Nha chương được xác định có từ thời nhà Thương và tồn tại cả trong thời kỳ Chiến quốc”.
Việc khai quật, khám phá và giới thiệu nét đẹp tạo hình cùng chất liệu độc đáo, đặc trưng rất riêng trong các thể loại ngọc đá thuộc văn hóa Phùng Nguyên đã trở thành niềm tự hào của nền khảo cổ học Việt Nam. Với riêng những người đam mê cổ ngoạn, việc tìm gặp, hoặc có cơ duyên sở hữu được một trong những hiện vật ngọc đá Phùng Nguyên hẳn là niềm vinh dự, bởi độ quý hiếm của ngọc đá Phùng Nguyên cùng vẻ đẹp huyền thoại của nó khiến các hiện vật này không dễ săn tìm được trên thị trường.
Đã qua hơn 4.000 năm, vẻ đẹp của ngọc đá Phùng Nguyên cho đến nay vẫn không lỗi thời, mai một, mà trái lại khiến hậu thế phải nghiêng mình trước bàn tay tạo tác tài hoa của người thợ thủ công Phùng Nguyên - những cư dân nguyên thủy, khởi nguồn cho sự hình thành và phát triển các nền văn hóa trên đất Việt hôm nay.
NGUYỄN ĐÌNH