Những bức điện tối khẩn
Giờ đây, đọc lại những chỉ thị đặc biệt về chiến dịch giải phóng Trường Sa trong cuốn Một số văn kiện chỉ đạo Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 Chiến dịch Hồ Chí Minh của Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng (NXB QĐND, H, 2005), lấy bối cảnh hôm nay để soi vào năm tháng ấy, mới thấy tầm vóc vĩ đại của những bức điện tối khẩn bấy giờ.
Ngày 30-3-1975, Quân ủy Trung ương điện gửi các đồng chí Chu Huy Mân, Võ Chí Công, nêu rõ: “Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, Thường vụ giao cho Khu ủy và Bộ Tư lệnh B1 nhiệm vụ nghiên cứu, chỉ đạo thực hiện gấp rút, nhằm thời cơ thuận lợi nhất, đánh chiếm các đảo hiện do quân ngụy miền Nam chiếm đóng thuộc quần đảo Nam Sa. Trong việc này, anh Nguyễn Bá Phát, phái viên của Bộ Tổng Tham mưu và các cán bộ Hải quân đi cùng sẽ do Khu ủy và Quân khu ủy chỉ đạo để thực hiện kế hoạch”.
Mười ngày sau, ngày 9-4-1975, một bức điện tối khẩn khác từ Quân ủy Trung ương điện cho các đồng chí Võ Chí Công, Chu Huy Mân (Quân khu 5), Hoàng Hữu Thái (Phó Tư lệnh Hải quân): “Chỉ thị cho các lực lượng ta hành động kịp thời theo phương án đã định. Nếu để chậm, có thể quân nước ngoài chiếm trước, vì hiện nay một số nước ngoài đang có ý định xâm chiếm”.
Mệnh lệnh đã rõ. Một chiến dịch thần tốc được triển khai. Từ vùng biển Đông Bắc, một biên đội gồm ba tàu của Lữ đoàn 125 Hải quân rời bến: tàu 673, 674, 675. Những con tàu từng làm nên huyền thoại “tàu không số” trên đường Hồ Chí Minh trên biển, giờ đây nhận một nhiệm vụ mới. Thuyền trưởng Nguyễn Xuân Thơm (tàu 673), Nguyễn Văn Đức (tàu 674) và Phạm Duy Tam (tàu 675) mở hết tốc lực, hướng về Đà Nẵng.
21 giờ ngày 10-4-1975, ba tàu cập cảng Tiên Sa.
Vừa cập cảng Tiên Sa, ngay lập tức cả ba tàu cấp tốc nhận nhiệm vụ chở quân đi giải phóng Trường Sa, gồm đội 1 của Đoàn 126 đặc công nước Hải quân (do Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Ngọc Quế làm đội trưởng) cùng với một lực lượng đặc công của Sư đoàn 2 (Quân khu 5). Chỉ huy cả hai lực lượng này là Lữ đoàn trưởng đặc công nước - Đoàn 126 - Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Mai Năng. Chỉ mấy tiếng đồng hồ, các lực lượng đã tập kết lên tàu, ẩn kín trong khoang.
Từ Tiên Sa, trong đêm tối, cả ba tàu 673, 674 và 675 đều được ngụy trang thành tàu đánh cá mang cờ hiệu nước ngoài. 4 giờ sáng ngày 11-4-1975, ba con “tàu đánh cá” (với mật danh là biên đội C75) đè sóng tiến về hướng mặt trời mọc, thẳng hướng ra Trường Sa. Đảo Song Tử Tây là đảo đầu tiên mở màn cho chiến dịch này, để rồi rút kinh nghiệm giải phóng các đảo tiếp theo. Trên bộ, đây cũng là thời điểm các cánh quân của ta đang chuẩn bị nổ súng trên mặt trận Phan Rang - Xuân Lộc.
Nhiều năm trước, trong một lần gặp Thiếu tướng Mai Năng khi ông đang điều trị tại Viện Y học cổ truyền Quân đội (Thiếu tướng Mai Năng đã mất vào tháng 12-2019 - PV), ông đã kể với chúng tôi rằng: Trước giờ ra khơi, tướng Hoàng Hữu Thái (khi ấy là Chuẩn đô đốc, Phó Tư lệnh Hải quân) hỏi: “Trận này đánh có khó không?”. Tôi trả lời: “Cái khó trước hết đây là vấn đề mới của đặc công nước. Bởi đặc công nước chuyên đánh tàu, chưa quen đánh căn cứ, cứ điểm. Cái khó thứ hai là đặc công phải tiếp cận và đánh ngay, đây là điều không đơn giản. Địa bàn Trường Sa rất rộng lớn và quân ta chưa thông thuộc địa hình…”. “Vậy không đánh được à?”, tướng Hoàng Hữu Thái hỏi. Tôi trả lời: “Đánh được, nhưng phải có phương pháp mới, đánh theo phương pháp trinh sát vũ trang, có nghĩa là trinh sát đến đâu đánh đến đó, không chuẩn bị trước”.
Để đưa được toàn bộ lực lượng tiếp cận chính xác với các đảo ở Trường Sa là chuyện không dễ dàng. Dù rằng với lực lượng đặc công nước tinh nhuệ của Đoàn 126 và “đặc công Sư 2” khét tiếng của Quân khu 5, nếu tiếp cận được đảo đúng giờ G thì chuyện giải phóng đảo không phải quá khó khăn, nhưng hành trình ra đảo Song Tử Tây ngày đó quả là cam go.
Hành trình vượt sóng
Ngày hôm sau, 12-4-1975, khi biên đội C75 đang hành quân giữa biển khơi thì bất ngờ xuất hiện một tàu bám theo, trên không trung máy bay nước ngoài liên tục lượn vòng, theo dõi. Mặc dù bộ đội đặc công cùng vũ khí đã được giấu kỹ dưới hầm tàu, bên trên ngụy trang bằng lưới đánh cá, nhưng tình hình căng thẳng khiến ai nấy đều không khỏi lo lắng: Chỉ huy chiến dịch Mai Năng lo lắng: “Phải chăng kế hoạch đã bị lộ?”.
Ông nhanh chóng ra lệnh cho các tàu đổi hướng, giả vờ hướng về vùng biển đảo Hải Nam (Trung Quốc). Những “ngư dân” của biên đội C75 vẫn bình tĩnh điều khiển tàu như thể đó là lộ trình thường nhật. Sau nhiều giờ căng thẳng theo dõi, con tàu của nước khác nói trên cùng máy bay giám sát dần biến mất. Ngay lập tức, toàn biên đội tăng tốc, thẳng tiến về quần đảo Trường Sa. Từ rạng sáng ngày 11-4-1975 đến chiều ngày 13-4-1975, biên đội C75 đã di chuyển về tọa độ đã định.
Bầu trời đêm 13-4-1975 chuyển dần về rạng sáng 14-4-1975. Trên vùng biển mênh mông, ba con tàu lần lượt vào vị trí, chuẩn bị cho trận đánh đầu tiên: đảo Song Tử Tây.
Khoảng 1 giờ sáng ngày 14-4-1975, đội 1 đặc công do Đội trưởng Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy chia làm 3 mũi lặng lẽ rời tàu 673, dùng xuồng đổ bộ lên đảo. Các tàu 674 và 675 làm nhiệm vụ án ngữ phía bên ngoài. Trong 3 mũi đổ bộ, có hai mũi đổ bộ an toàn, nhưng một mũi còn lại xảy ra sự cố không thể tiếp cận đảo do sóng quá to. Hơn một giờ đồng hồ sau, mũi tiến công gặp sự cố cũng đã bám được đảo. Đúng 4 giờ 30 sáng 14-4-1975, ba mũi đồng loạt nổ súng.
Bị đánh bất ngờ, địch co cụm về trận địa phòng thủ để chống trả. Thiếu tướng Mai Năng nhớ lại, vào đầu trận đánh, đặc công ta có lợi thế bất ngờ, nhưng hỏa lực của đối phương còn khá mạnh.
Ông kể: “Chúng tôi hô lớn về việc sử dụng hỏa lực mạnh để uy hiếp tinh thần địch ẩn núp trong hầm” (ông không ngờ nhờ tiếng hô rất lớn này của anh em đã góp phần làm cho các binh sĩ của quân đội Sài Gòn nhanh chóng đầu hàng). Súng bắn ra từ nơi phòng thủ yếu dần rồi dừng hẳn. Đến khoảng 5 giờ 30 sáng 14-4-1975, binh sĩ Sài Gòn trên đảo Song Tử Tây đồng loạt đầu hàng.
Lá cờ của quân giải phóng được kéo lên thay lá cờ của chế độ cũ. Người có vinh dự treo cờ Tổ quốc trên đảo Song Tử Tây là Hạ sĩ Lê Xuân Phát, thuộc Đội 1, Đoàn đặc công 126.

Ngay sau khi Song Tử Tây được giải phóng, cục diện phòng thủ của địch trên toàn quần đảo Trường Sa bị lung lay. Cùng ngày, các tàu tiếp tục chở lực lượng đặc công và bộ đội chủ lực ra chiếm giữ các đảo còn lại: Sinh Tồn, Nam Yết, Sơn Ca, An Bang và Trường Sa.
Chiến dịch được thực hiện thần tốc, khéo léo và chính xác. Ngay trong ngày 14-4-1975, tàu 675 của thuyền trưởng Phạm Duy Tam chở tù binh quay về Đà Nẵng để bàn giao và mang theo quân của Sư đoàn 2 (Quân khu 5) ra tiếp quản Song Tử Tây, xây dựng hệ thống phòng thủ kiên cố - bảo vệ thành quả đầu tiên trên vùng biển thiêng liêng.
Sau khi giải phóng Song Tử Tây, chủ trương tiến đánh giải phóng các đảo còn lại trong quần đảo Trường Sa đã được truyền từ trên xuống. Rạng sáng 21-4-1975, chiếc tàu có số hiệu 641 do đồng chí Đỗ Viết Cường (Đội phó Đội 1 của Đoàn 126, sau này ông là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Chuẩn Đô đốc, Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân) chỉ huy nhằm hướng mục tiêu đảo Sơn Ca thẳng tiến.
Cũng như các con tàu trong biên đội đi đánh đảo Song Tử Tây, tàu 641 được cải trang thành tàu đánh cá, liên tục thay đổi biển số tàu để tránh bị lộ. Kế hoạch dự kiến là tàu 641 sẽ đánh vào đêm 23-4-1975, nhưng trên đường gặp nhiều tàu ngầm, tàu khu trục và máy bay Mỹ nên cấp trên đồng ý cho tàu 641 lùi thời điểm tấn công…
Đúng 2 giờ sáng 25-4-1975, quân ta đổ bộ lên đảo Sơn Ca. Đến 2 giờ 30 phút, toàn bộ các mũi tiến công đồng loạt nổ súng, quân địch đầu hàng chỉ sau nửa giờ. Cờ giải phóng tung bay trên đảo Sơn Ca.
Ngày 27-4-1975, ta giải phóng đảo Nam Yết và đảo Sinh Tồn. Cấp trên giao cho Chỉ huy trưởng Mai Năng ở lại đảo Nam Yết. Ngày 28-4-1975, quân ta giải phóng đảo Trường Sa, đảo An Bang, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong vòng nửa tháng với những cố gắng lớn nhất… Một vùng biển rộng lớn giàu tài nguyên với những đảo và quần đảo có vị trí chiến lược hết sức quan trọng đã thuộc chủ quyền của Tổ quốc.