
Cơn bão Lekima vừa đi qua nhưng ảnh hưởng của nó rất nặng nề, đó là kéo theo đợt lũ lụt không chỉ trong vùng tâm bão mà còn lan rộng ra nhiều tỉnh ở vùng Bắc bộ, tạo nên cơn lũ lớn nhất trong vòng 45 năm qua. Theo thống kê của Ủy ban Phòng chống lụt bão Trung ương, từ năm 1995 đến nay, trung bình mỗi năm Việt Nam phải chịu thiệt hại từ bão lũ lên đến 1,2 tỷ USD (gần bằng 2% GDP cả năm).
Những con số buồn

Mỗi cơn bão lũ đi qua đều để lại những thiệt hại nặng nề về tài sản. Ảnh chụp tại tỉnh Thanh Hóa. Ảnh: AFP
Chính thức đổ bộ vào hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình vào tối ngày 3-10-2007, cơn bão Lekima đã làm ảnh hưởng và tạo nên lũ lụt lan trên diện rộng, kéo dài hầu hết các tỉnh Bắc Trung bộ (từ Thừa Thiên – Huế đến Thanh Hóa) và nhiều tỉnh Bắc bộ như: Ninh Bình, Hòa Bình, Sơn La, Tuyên Quang, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái…
Mặc dù công tác chuẩn bị tránh bão, cứu nạn, cứu trợ được các cơ quan ban ngành từ Trung ương đến địa phương chủ động kịp thời, khẩn trương, tuy nhiên cho đến thời điểm này, con số chết và mất tích lên đến cả trăm người, chưa nói đến con số thiệt hại về tài sản và hàng ngàn người phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất.
Bão Lekima là cơn bão số 5 ở biển Thái Bình Dương đổ bộ vào nước ta. Nó được xem là cơn bão phức tạp và “kỳ quặc”, làm cho các nhà dự báo thời tiết phải lúng túng. Theo Trung tâm dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương, do sự tác động của hiện tượng La Nina, năm nay, mùa mưa bão bắt đầu muộn hơn so với những năm trước, nên sẽ có khoảng 9 – 10 cơn bão xuất hiện trên biển Đông. Trong đó dự kiến sẽ có 6 cơn bão lớn ảnh hưởng trực tiếp vào nước ta. Như vậy từ đây cho đến cuối năm 2007, Việt Nam sẽ còn vài cơn bão nữa.
Nhìn lại năm 2006, theo Ban chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương, Việt Nam đã “đón” 10 cơn bão, 4 áp thấp nhiệt đới, 9 đợt lũ quét đã làm 339 người chết, 274 người mất tích và hơn 2.000 người bị thương (trong đó những trận bão kinh hoàng nhất là Xangsane, Durian, Chanchu), thiệt hại về tài sản gần 20.000 tỷ đồng. Theo thống kê, từ năm 1995 đến nay, trung bình mỗi năm Việt Nam bị thiệt hại do bão lũ gây ra ước tính khoảng 1,2 tỷ USD (bằng 2% GDP cả năm). Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) có trụ sở tại Geneva (Thụy Sĩ) đã công bố trong những năm sắp tới sẽ có nhiều thay đổi về thời tiết và sẽ có không ít cơn bão dữ xảy ra. Việt Nam được xếp vào quốc gia nằm 1 trong 5 “rốn bão” lớn nhất thế giới, đồng thời là quốc gia nhiệt đới gió mùa, thời tiết, thủy văn diễn biến rất phức tạp nên khó tránh khỏi những cơn bão lũ ấy.
Hệ lụy của “sự đè nén lò xo”
Trả lời trên báo Tuổi Trẻ mới đây, ông Nguyễn Ngọc Sinh – Chủ tịch Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, cho rằng: “Lũ dữ là “sản phẩm” của chúng ta. Cơn lũ vừa qua không quá lớn nhưng diễn ra ở diện rộng và có nhiều diễn biến không mang tính quy luật. Nguyên nhân là khi con người đã có sức mạnh chinh phục thiên nhiên như ngăn sông, đắp đập, lấp biển...; sức mạnh của con người đã so sánh được với sức mạnh của thiên nhiên, rồi đã làm biến dạng sơ đồ quy luật tự nhiên bởi hiệu ứng nhà kính, phá rừng, ngăn sông, lấn biển. Con người đã đè nén thiên nhiên như cái lò xo và đã đến lúc nó bật lên bằng cách “nổi giận” thể hiện những trận cuồng phong, lũ lụt và đã nhận chìm lại con người!”.
Qua các trận bão lũ, các nhà khoa học lên tiếng rằng vấn đề bảo vệ môi trường để hạn chế lũ lụt, thiên tai là cấp bách và bài học về sự trả giá cho môi trường vẫn không bao giờ cũ. Tiến sĩ lâm nghiệp cộng đồng Viên Ngọc Nam (Đại học Nông Lâm TPHCM), cho rằng: “Ngoài những yếu tố do con người gây ra như các thay đổi, cải tạo tự nhiên (trong xây dựng, sản xuất…) thì phá rừng là nguyên nhân căn cơ nhất dẫn đến lũ dâng cao vì rừng không giữ được nước, xói mòn. Mặc dù Nhà nước rất quyết liệt trong việc bảo vệ nhưng rừng vẫn “chảy máu”, trông rất xót xa”.
Trong cuộc hội thảo “Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam”, giáo sư Võ Quý (người duy nhất của Việt Nam nhận giải thưởng quốc tế Hành tinh xanh), nói rằng: “Trong số nhiều vấn đề môi trường mà Việt Nam phải đương đầu, nghiêm trọng nhất là nạn phá rừng, khai thác rừng cạn kiệt”. Hội thảo này đưa ra con số: Tây Nguyên ở những năm 60 có 90% diện tích được che phủ bởi rừng, nhưng từ năm 1996 đến nay, mỗi năm Tây Nguyên mất đi 10.000ha rừng. Cũng theo GS Võ Quý, ngoài những kẻ phá rừng, ngay cả những lâm trường cũng khai thác gỗ quá chỉ tiêu cho phép và không theo đúng thiết kế được duyệt, dẫn đến chuyện số liệu trên sổ sách thì “xanh um” trong khi trên thực tế thì “vàng nâu” – đó là màu của đất trồng, của đồi núi trọc.
Giải pháp: kết hợp tầm quốc gia và ý thức con người
Làm gì để giảm thiểu thiên tai là sứ mệnh mà Chính phủ rất quan tâm, chỉ đạo và đầu tư nhiều kinh phí. Từ trước đến nay, nhiều cơ quan, bộ ngành đã có những đề án về giảm thiểu thiên tai như: “Chiến lược và chương trình hành động quốc gia giảm nhẹ thiên tai Việt Nam” (do Chương trình phát triển Liên hiệp quốc và Bộ NN-PTNN thực hiện), “Nghiên cứu phát triển và quản lý tài nguyên nước quốc gia cho 14 lưu vực lớn của Việt Nam” (Bộ NN-PTNN và Cơ quan Hợp tác quốc tế của Nhật Bản - JICA thực hiện), “Định hướng quy hoạch lũ miền Trung” (công trình cấp Nhà nước). Mới đây, Ban chỉ đạo Phòng chống lụt bão còn thực hiện Dự thảo “Chiến lược quốc gia phòng chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020” với những biện pháp thích hợp hướng tới mục tiêu giảm tổn thất từ người, tài sản; bảo đảm phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, kết hợp với phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo…
Tuy nhiên, theo các nhà khoa học thì các đề án vẫn chưa toàn diện, chưa tập trung và mang tính dài hơi. Trong khi đó, diễn biến của bão - lũ - lụt mỗi năm lại có sự thay đổi không theo quy luật như trước đây cộng với điều kiện địa lý Việt Nam là quốc gia đón gió biển Đông; địa hình đồi núi sườn dốc, đồng bằng hẹp, trũng là những mối đe dọa thường trực đến sinh mạng, tài sản của con người.
Cũng theo ông Nguyễn Ngọc Sinh, chúng ta cần có một tư duy khoa học nghiêm túc và đầy đủ về thiên tai, môi trường. Từ đó xây dựng một chương trình quốc gia, một chiến lược tổng thể để đối phó, bên cạnh các biện pháp đơn lẻ như trồng rừng, giảm thiểu khí thải, quản lý khai thác… Còn các nhà bảo vệ môi trường thì cho rằng, “cái gốc” vẫn là ý thức tham gia bảo vệ môi trường của người dân phải được đặt lên hàng đầu, lúc ấy việc giảm thiểu và phòng chống lũ lụt, thiên tai mới đồng bộ, đạt hiệu quả.
Một số trận bão lũ lớn xảy ra từ năm 1945 đến nay Ở Bắc bộ 2 trận lũ đặc biệt lớn vào tháng 8-1945 và tháng 8-1971 gây vỡ đê nhiều nơi. Trận lũ năm 1971 là trận lũ lớn nhất trong vòng 100 năm qua ở đồng bằng sông Hồng. Ngoài ra, còn có các trận lũ lớn xảy ra vào các năm: 1913, 1915, 1917, 1926, 1964, 1968, 1969, 1970, 1986, 1996, 2002... Ở miền Trung những trận lũ lớn xảy ra vào các năm: 1964, 1980, 1983, 1990, 1996, 1998, 1999, 2001, 2003, 2004, 2006… Ở ĐBSCL đã xảy ra một số trận lũ lớn vào các năm: 1961, 1966, 1978, 1984, 1991, 1994, 1996, 2000, 2001… |
KHÁNH KHÔI (Tổng hợp)