
Ngày 20-8-1968, từ trong hàng rào điện tử McNamara ở Quảng Trị, tôi và nhà thơ Lữ Huy Nguyên về tới thành phố Vinh – Nghệ An. Lúc ấy là 10 giờ sáng, cái nắng đang vào trưa của thành phố “gió Lào” này loa lóa, như hắt lửa vào mặt!
Sau Mậu Thân, chúng tôi qua đây trong... đêm đen và pháo sáng. Lấp lóa những chiếc xe cành lá ngụy trang còn tươi nguyên. Hôm nay, chúng tôi qua sông Lam phía đầu nguồn bằng con thuyền nhỏ. Không có tiếng gầm của máy bay. Lòng những mừng thầm. Nhưng... đứng trước thành phố Vinh chúng tôi bàng hoàng vì sự hoang vắng đến rợn người. Lần đầu tiên chúng tôi hiểu thế nào là một “thành phố chết” theo đúng nghĩa đen của từ ấy. Không một bóng người! Không một ngọn cây! Không còn một chút màu xanh của lá! Núi Quyết trơ vỏ ống khói nham nhở “vết thương” của nhà máy điện. Chúng tôi rùng mình, thấy mình là hai sinh vật sống duy nhất ở “vùng đất chết” này!

Công viên tượng đài Bác Hồ tại Nghệ An.
41 năm sau, tôi trở lại nơi đây và ngỡ ngàng nhận ra thành phố chết năm nào trở mình sống động bởi cơ sở hạ tầng hoàn hảo và điều không ai ngờ đó là môi trường sinh thái ngoài sức tưởng tượng của tôi - một môi trường xanh mà tôi có cảm giác nhiều nhà lãnh đạo các địa phương và kể cả trung ương dường như không chú ý tới. Đứng trên con đường nào tôi cũng nhận ra những hàng cây với những mảng xanh bắt mắt, đặc biệt là cái mảng xanh của rừng thông 5 – 10 tuổi trên núi Quyết.
Và kia, ngã sáu thành phố. Hồi ấy chúng tôi đã đứng ở đây hàng tiếng đồng hồ để nhận đường. Nhưng không sao nhận ra đường nào bởi đường nào cũng dày đặc hố bom. Hố bom mới chồng lên hố bom cũ. Bây giờ mọi con đường đã được trải nhựa... Công viên trung tâm thành phố xây dựng sau ngã sáu. Hơn 10 năm trước lãnh đạo thành phố nghèo này dám quy hoạch gần 26ha đất vàng cho một công viên. Một tầm nhìn về khí hậu, về sinh thái, về chất lượng sống cho con người của một thành phố có quá khứ không xa là “bình địa”, là Stalingrat trong chiến tranh thế giới thứ hai và hiện tại đang tiềm ẩn những khó khăn.
Người ta không bằng lòng một số lãnh đạo Nghệ An không kéo được nhà đầu tư nào cho thành phố Vinh. Riêng tôi thì nghĩ, không ít nơi người ta đánh đổi tất cả - kể cả môi trường trong lành cho nhà máy, cho khai thác khoáng sản, hải sản... Đấy là sự đánh đổi ẩn chứa nhiều sai lầm mà tương lai không xa thế hệ con em sẽ gánh đủ hiểm họa của nó!
Lãnh đạo Nghệ An hơn 10 năm trước kêu gọi đầu tư vào công viên. Đúng là không thể tìm nhà đầu tư bỏ bạc tỷ để thu bạc đồng! Sự kiên trì của các anh cho chất lượng cuộc sống của một “thành phố chết” một thời đáng kính nể. Chưa tìm ra nhà đầu tư, các anh xây tường bao lại... Và mãi hơn 10 năm sau, năm 2001, các anh mới tìm được những người con của Nghệ Tĩnh thành đạt ở khắp nơi - đặc biệt là ở TPHCM.
Lòng yêu quê hương không còn là thứ gì trừu tượng nữa. Nó là lá phổi cho thành phố, là nơi vui chơi cho trẻ em, là chỗ hò hẹn cho những đôi tình nhân, là niềm tự hào của những thế hệ đã từng xả thân cho nền độc lập và thống nhất non sông...
Anh Phan Doãn Ngọc, một trong những nhà đầu tư công viên, kể cho tôi nghe với niềm phấn khởi về cái ngày khai trương công viên, trung tâm thành phố. Người người, lớp lớp từ Nghệ An, Hà Tĩnh và cả Thanh Hóa ùn ùn đổ vào hai cánh cổng rộng trên 10m. Già, trẻ, trai gái, Kinh - Thượng tràn vào công viên như cuộc trẩy hội. Hai cánh cổng không còn giữ nổi dòng thác mà lòng tự hào đang được đánh thức. Sự hài lòng của một thành phố cho một công trình an sinh xã hội đang là câu trả lời chính xác nhất.

Yên Thành là vựa lúa của Nghệ An.
Người Nghệ Tĩnh hôm nay không chỉ tự nào về địa linh nhân kiệt của quê mình, mà còn tự hào về Quang Trung với ngôi đền trên núi Quyết, về Hồ Chí Minh với bức tượng đá cao vời vợi trên ngọn đồi nhân tạo... mà còn tự hào về Công viên trung tâm thành phố Vinh. Ai cũng nghĩ phải coi cho rõ bằng mắt, sờ bằng tay, nghe cho được cái hồn của non sông trên từng tấc đất đã nghìn vạn lần bị bom đạn chà xát!
“Một đôi vợ chồng Rồng” đang phun nước xuống muôn dân, hai vuốt trước của Rồng trên hai tảng đá trông thật vững chãi - một thế đứng của dân tộc thấm đẫm máu và nước mắt và cũng thấm đẫm huyền thoại. Những kiến trúc sư, họa sĩ và nghệ nhân mọi miền đất nước về đây để chăm chút từ quy hoạch tổng thể đến từng cái vảy Rồng, từ những bức tượng trừu tượng bằng vài tảng đá ghép lại đến thế đứng của những cây duối cổ thụ, cây nguyệt quế, cau vua... Và cái lãng mạn của những cây liễu rũ chung quanh hồ. Ở đây cỏ được xem là cái nền của công viên. Cỏ được chăm chút, được cắt xén, “tưới tắm” hàng ngày. Những con hải mã, những con cá sấu... đang núp mình trên những thảm cỏ như đang lắng nghe tiếng chim hát, tiếng vượn hú, tiếng nai “tác”. Những trò chơi cảm giác mạnh tôi từng thấy ở Mỹ cũng được các anh chọn lọc đưa vào công viên.
Tôi đi giữa những thảm cỏ xanh nõn, những rừng cây nhiệt đới từ xà cừ, lim áo giáp, đến những cây cau vua, lộc vừng, điệp hoa vàng, phượng hoa đỏ mùa hè..., bồi hồi nhớ lại một thời của thành phố “chết”, của thành phố sau Mậu Thân năm 1968! Tôi không hiểu may mắn nào đã cho chúng tôi được “sàng” qua bom đạn ác liệt một thời, còn sống cho tới hôm nay để được nhìn thành phố mà sự sống đã trỗi dậy...
Thế hệ trẻ hôm nay chưa chắc hiểu trên công viên này, có bao nhiêu chàng trai, cô gái chưa qua tuổi thành niên đã ngã xuống. Họ là những thanh niên xung phong, là đội quân của xăng dầu. Với họ, xăng là máu của xe. Phi công Mỹ coi họ là “điểm đỏ” trên bảng đồ triệt tiêu!
Lặng lẽ tôi đi tìm căn hầm chữ A mùa xuân năm 1968, tại công viên hôm nay. Căn hầm bị bom hơi! Cả hai cô gái tuổi vừa tròn 17 đã nằm xuống! Cả hai đều xinh đẹp và giàu ước mơ. Họ bước vào đội quân vận chuyển xăng dầu từ tuổi 16. Tối hôm sau hai cô gái khác cũng tuổi vị thành niên như họ đã vào chính căn hầm bạn họ vừa “ra đi”. Một trong hai cô gái đó sau này là vợ tôi bây giờ. Họ lại tiếp tục công việc của đồng đội.
Ở đây tôi hiểu sự sống và cái chết không có đường ranh. Sống là làm việc, là yêu đương, là khát vọng... Và chết là nằm xuống như một giấc ngủ. Ở căn hầm chữ A này có hơn 10 cô gái vận chuyển xăng dầu đã ngã xuống. Và tôi cũng chưa có điều kiện để tìm hiểu trên cái diện tích 26ha của công viên hôm nay, đã có bao nhiêu chàng trai, cô gái thành Vinh đã ngã xuống. Con số chắc không dưới 100!
Với tôi quá khứ và hiện tại không có khoảng cách, nếu có, đó chỉ là gạch nối. Chiến tranh dẫu lùi xa, nhưng nó vẫn là niềm tự hào cho cả dân tộc trong hòa bình, vẫn là cái nền cho một bức tranh trong xây dựng môi trường xanh cho quê hương mình trên cái vùng “đất chết” hôm qua. Chất lượng sống là cái giá mà cả dân tộc phải trả nếu thiếu môi trường xanh.
Đấy chính là cái nhìn đúng đắn nhất về giá trị của cuộc sống hôm nay.
Hoàng Lại Giang