
Pơthi Shakơrtinh – một tập tục ứng xử với người chết của đồng bào Kơ Ho và Churu, có nghĩa là “xây mộ” và “ăn xương” mà cách nói khác là “trả nợ xương cốt”. Đó là hủ tục hay là mỹ tục? Trước câu hỏi của chúng tôi, già làng Drong Blum cứ nhắc đi nhắc lại mãi: “Cau chơt la jơh” (nghĩa tử là nghĩa tận) khi chúng tôi trò chuyện cùng bà con trong buôn La Bouye (xã Lạc Xuân, Đơn Dương, Lâm Đồng). Người có uy tín nhất buôn La Bouye muốn khẳng định rằng, cần giữ nguyên tục lễ Pơthi Shakơrtinh như ông bà ngày xưa truyền lại. Già làng Drong Blum nói đúng nhưng chỉ đúng ở ý nghĩa nguyên thủy của tục Pơthi Shakơrtinh…
Món nợ Pơthi Shakơrtinh

Trưa đứng bóng, chị Nai Thu dẫn chúng tôi lên thăm nghĩa địa của buôn La Bouye mà tiếng Kơ Ho gọi là kut. Kut nằm trên một ngọn đồi thấp, không gian trú ngụ của các linh hồn cách không xa lắm với làng buôn của những người còn sống. Ở nơi ấy có hàng trăm ngôi mộ và tất cả đều đã được xây cất khang trang - điều này làm chúng tôi thực sự bất ngờ khi biết cuộc sống đồng bào dân tộc thiểu số ở đây còn nhiều gian khó. Chị Nai Thu là một phụ nữ thông minh, chân thực và cởi mở. Chính sự cởi mở của chị đã cho chúng tôi biết được thêm nhiều điều…
Người phụ nữ Kơ Ho ấy kể rằng, đến nay chị đã đứng ra cáng đáng việc xây mộ và trả nợ xương cốt cho gần mười người đã mất trong dòng họ. Gần đây nhất, chị vừa mới làm Pơthi Shakơrtinh cho ông cậu, người anh ruột của mẹ. Ông cậu Touwetter K’Nher mất từ năm 1994, ông cũng có một người con trai và một người con gái, nhưng theo tập tục: con trai không có trách nhiệm xây mộ cho bố, còn người con gái của ông tên là Ma Xuyên thì khó khăn quá không thể lo được. Nai Thu là cháu gái, người có vai trò chính trong một dân tộc theo chế độ mẫu hệ, và vì vậy, chị đứng ra cáng đáng việc hậu sự cho cậu. Nai Thu nói: “Là con cháu, mình phải làm tròn bổn phận và trách nhiệm”. Lễ Pơthi Shakơrtinh của ông Touwetter K’Nher mời hơn 300 thực khách đến dự tiệc rượu, xây mộ hết một triệu đồng nhưng chi phí đãi tiệc tốn kém hơn 10 triệu đồng…
Trên kut của buôn La Bouye, chúng tôi đã gặp mộ phần của ông Tou Prong Hiou, một nhân sĩ trí thức khá nổi tiếng. Ông Hiou là một trong những người đầu tiên tốt nghiệp khóa đào tạo bác sĩ Đông Dương của người Pháp, bạn đồng môn với bác sĩ người Ê Đê Y ngông Niê K’Đăm. Tou Prong Hiou là một người thuộc tầng lớp trên, điều đó còn được thể hiện khi ông đã mất (năm 1993). Những người con của ông đã xây cất cho người cha đáng kính của mình một mộ phần với thời giá năm 1993 lên tới 14 triệu đồng. Đó là chưa kể những ngày đãi tiệc “trả nợ xương cốt” với hàng trăm khách mời.
Thế nhưng, khách quan mà nói, trong cộng đồng người dân tộc thiểu số, ít người dư của nả như nhà chị Nai Thu và thực sự giàu có như con cái Tou Prong Hiou, mà luật tục quy định về Pơthi Shakơrtinh thì không có một biệt lệ nào cả. Chị Ka Chuông, Chi hội trưởng Chi hội Phụ nữ buôn M’Răng, xã Lạc Lâm - đưa mắt ái ngại nhìn chồng rồi dè dặt tâm sự với chúng tôi: “Người vợ mất chồng đã khổ tứ bề. Thế nhưng, điều họ lo hơn sau khi chồng mất chính là món nợ Pơthi Shakơrtinh. Ka Chuông dẫn chúng tôi đến nhà chị Ka Thiu. Trong căn nhà lá tồi tàn không thể nghèo hơn, Ka Thiu nuốt nước mắt kể: Chồng chị không may bị chết từ năm 1996, để lại cho người vợ yếu ớt ấy một nách 8 đứa con thơ dại. Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thế nhưng, phía bên nội vẫn luôn nói bóng gió nhắc nhở chị phải xây mộ cho chồng và “trả nợ xương cốt” cho gia đình họ. Ông Rôđa Tê, thành viên của Hội đồng nhân sĩ trí thức trong cộng đồng thiểu số tại Đơn Dương, người có uy tín nhất tại M’Răng kể rằng: em gái của ông là chị Ya Nhai sống ở buôn M’Lọn thuộc thị trấn Thạnh Mỹ - đã phải mổ một lần 8 con trâu (khoảng 40 triệu đồng) để tổ chức Pơthi Shakơrtinh cho tám thế hệ từ đời cố ngoại để lại. Anh Touneh Ket ở buôn La Buoye cũng cho chúng tôi biết, vợ anh vừa làm Pơthi Shakơrtinh hồi tháng ba năm nay cho ông cố ngoại đã mất hơn hai trăm năm…
Sức nặng của luật tục
Trên mảnh đất Tây Nguyên này, nhiều mỹ tục có ý nghĩa đã biến thành hủ tục khi yếu tố thực dụng len vào, mà Pơthi Shakơrtinh là một ví dụ. Theo quy định của luật tục từ bao đời nay, một phụ nữ nếu có chồng không may bị chết trước thì họ phải đứng ra sắm sửa lễ vật mang đến nhà trai xin được xây mộ cho chồng. Mộ được xây xong, họ phải lo làm thịt một con trâu và làm tiệc để mời họ hàng nhà trai ăn uống. Khi tàn cỗ, người vợ không may mắn ấy còn phải chuẩn bị một đùi trâu, một ché rượu và tiền để gửi về tạ gia đình bên chồng. Tùy vào vai vế của người chồng trong dòng tộc mà người vợ phải mổ một con trâu lớn hay vừa cho tương xứng. Người chồng có vị thế cao thì mổ trâu “bốn gang”, tức là con trâu có sừng dài bốn gang tay, và ngược lại. Nếu do hoàn cảnh kinh tế khó khăn mà đời mình không hoàn thành nghĩa vụ này thì con gái của người vợ góa bụa ấy phải tiếp tục thay mẹ “pơthi” cho cha và “shakơrtinh” cho họ hàng bên nội. Và đến lượt mình, người con gái mồ côi chưa có khả năng hoàn thành nghĩa vụ nặng nề thì phải tiếp tục truyền lại gánh nặng cho con, cháu, chắt gái của mình… Đối với những cô gái trẻ có chồng không may bị qua đời sớm thì họ cũng phải trả xong món nợ xương cốt rồi hãy nghĩ đến chuyện bước thêm bước nữa. Quy định này không có chiều ngược lại, vì luật tục cũng đã quy định, nếu người vợ không may qua đời trước thì người đàn ông sẽ phải vác xà gạt về nhà bố mẹ đẻ mà không được phép ở lại chính ngôi nhà của mình để làm nghĩa vụ người cha nếu anh ta có ý định thêm một lần “sang ngang”…
Người có uy tín nhất trong buôn cũng không có quyền can thiệp vào những điều khoản trói buộc của luật tục. Già làng Drong Blum của buôn La Bouye nói gằn từng tiếng khi chúng tôi hỏi quan điểm của ông về Pơthi Shakơrtinh: “Việc xây mộ và ăn xương là trách nhiệm phải làm. Thế hệ này không làm được thì thế hệ sau làm. Theo quan niệm của người Kơ Ho, trong cuộc đời một người đàn ông có ba mốc chính: bắt vợ, chết và xây mộ. Họ cũng cho rằng, cái chết của một con người là điểm mốc vô cùng quan trọng trong một đời người. Người Kơ Ho nói rằng “chơt la yơh” (chết là hết) nhưng họ cũng tâm niệm “cau chơt la yơh” (nghĩa tử là nghĩa tận). Cho nên, trong cộng đồng, dòng tộc có người qua đời, dù xa xôi và bận rộn thế nào thì họ cũng phải có mặt để phúng viếng, vĩnh biệt. Nhưng chết chưa thật sự là mất, hồn của người chết vẫn vương vấn với họ tộc, vợ con, với những người còn sống, chỉ đến khi đã làm Pơthi Shakơrtinh thì người chết mới thực sự ra đi vĩnh viễn. Pơthi Shakơrtinh còn là cuộc từ giã giữa dòng họ nhà chồng và dòng họ nhà vợ, từ đây hai nhà chẳng còn gì nợ nần lẫn nhau. Người Kơ Ho cho rằng, đám cưới có thể qua loa và cho nợ, nhưng “ăn xương” thì phải thật chu toàn đúng như sự quy định của luật tục. Người Kơ Ho không sợ cái chết đến với chính mình nhưng họ rất sợ người chết “quay trở về” và trừng phạt những người sống. Cho nên, người sống phải làm tất cả mọi điều để cho linh hồn người chết được bình yên ở thế giới bên kia và không còn có lý do trách cứ, quấy nhiễu khi người sống đã đối xử tốt với họ.
Câu hỏi chưa có lời giải!

Dân tộc Kơ Ho theo dòng mẫu hệ, người phụ nữ là người có quyền thừa kế và có vai trò quyết định nhiều việc hệ trọng trong mỗi gia đình. Nhưng trong hệ thống luật tục ông bà để lại, thì họ vẫn là người phải chấp hành những quy định nặng nề hơn so với người đàn ông, mà Pơthi Shakơrtinh là một ví dụ. Mặt khác, tâm lý “phú quý sinh lễ nghĩa” và “con gà tức nhau tiếng gáy” cũng đã len vào đời sống của đồng bào.
Chị Nai Linh – cán bộ Hội Phụ nữ xã Lạc Xuân, Đơn Dương, đưa cho chúng tôi xem tấm thiệp mời dự lễ Pơthi Shakơrtinh của nhà Touneh Thương ở buôn La Buoye và nói thêm: “Đây là sự ganh đua giữa các dòng tộc. Đời sống kinh tế có phần khá lên nên gia đình nào, dòng họ nào cũng muốn thể hiện sự sung túc của mình. Chỉ khổ cho những người phụ nữ nghèo.” Đúng vậy, đa số chị em phụ nữ dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói chung và Kơ Ho, Churu nói riêng là những người ít được học hành. Trong nhận thức hạn chế của mình, họ tiếp nhận mọi quan niệm xa xưa một cách thụ động. Những quy định của luật tục ăn sâu vào tiềm thức, dù biết là gánh nặng nhưng họ coi như những sức mạnh thần bí vượt quá khả năng vùng thoát của mình.
Chỉ riêng địa bàn huyện Đơn Dương đã có 27 thôn, buôn tập trung cư dân là đồng bào dân tộc thiểu số với hơn 5.630 phụ nữ dân tộc Kơ Ho và Churu có tuổi đời từ 18 trở lên. Chưa thể làm một thống kê để biết có bao nhiêu người đang phải đối mặt với Pơthi Shakơrtinh, tục thách cưới quá cao hay những hủ tục khác. Họ phải sống bằng nhận thức thụ động trong bi kịch của những sự ràng buộc lỗi thời và lạc hậu. Một nghịch lý đáng buồn là 15/27 thôn, buôn nêu trên đã đăng ký xây dựng thôn, buôn văn hóa. Trong khi đó, chính quyền và các đoàn thể ở địa phương vẫn chưa thực sự nỗ lực trong công tác tuyên truyền, vận động bà con xây dựng một đời sống văn hóa lành mạnh. Mặt khác, một thực tế đáng lo ngại là chuyên môn, nghiệp vụ của những người làm công tác đoàn thể, văn hóa trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn quá yếu. Ngay cả những cán bộ là người dân tộc thiểu số cũng thiếu hiểu biết về tập quán của đồng bào mình và không phân biệt đâu là phong tục, đâu là hủ tục.
Làm gì để cuộc sống đồng bào Kơ Ho, Churu cũng như các dân tộc thiểu số Tây Nguyên vươn lên phát triển, ấm no đồng hành với một môi trường văn hóa lành mạnh mang đậm dấu ấn truyền thống - vẫn là một câu hỏi không dễ trả lời!
Ký sự của UÔNG THÁI BIỂU