
Dưới thời Pháp thuộc, vùng đất rộng lớn gần 1.000 ha thuộc 2 xã Hiệp Mỹ và Mỹ Long, huyện Cầu Ngang (Trà Vinh) do các ông chủ người Pháp cướp đất nông dân lập sở ruộng, biến chủ đất thực sự thành tá điền và thẳng tay vắt kiệt sức dân. Cũng từ đó cái tên “cánh đồng Tây” ra đời và “chết danh”đến ngày nay. Tây đi, Mỹ về, hai thời “đệ nhất, đệ nhị Cộng Hòa” tiếp tục gieo trên đất này không phải lúa vàng mà là máu đỏ. Cả nước mắt người cánh đồng Tây cũng hồng vì pha máu...
Đổi chủ nhưng chưa đổi đời!

Thu hoạch tôm ở Hợp tác xã Thắng Lợi.
Sau mùa xuân đại thắng 1975, “cánh đồng Tây” thực sự đổi chủ: Đất được phân chia lại cho dân nghèo. Thế nhưng, “đổi chủ chứ chưa đổi đời”! Đây là vùng đất gò cao, thiếu nước tưới trầm trọng, một năm chỉ làm được 1 vụ lúa.
Không như miệt Hậu Giang ngon ăn được chủ điền Tây đầu tư thủy lợi qui mô đến ngày nay vẫn tác dụng. Ở đây chúng thừa biết đầu tư thủy lợi trên thế đất này là vô cùng tốn kém nên khỏe nhất là chỉ xỉa tay phát canh thu tô, vét sạch đến hột lúa cuối cùng trong lu khạp bần nông. 15 năm sau ngày giải phóng, người dân cứ đến mùa vụ lại vẫn ngửa mặt lên trời mà van: “Nước ơi!”.
Do phụ thuộc nước trời, năm nào “mưa thuận, gió hòa” kiếm được 8 đến 10 giạ lúa để ăn, năm nào gặp “hạn bà chằn” thì hầu hết nông hộ thiếu đói. Năm 1990-1992, ông Huỳnh Hiếu Bi- trưởng phòng nông nghiệp huyện - đề xuất với tỉnh xây dựng một số công trình thủy lợi nội đồng để “đánh thức” cánh đồng Tây.
Từ sản xuất 1 vụ lúa bấp bênh, người dân đã làm được một vụ lúa ăn chắc; một số ít nơi làm được thêm vụ hè thu cộng với khai thác nguồn lợi tôm, cá tự nhiên. Cuộc sống tuy bớt khó khăn, nhưng cây lúa cánh đồng Tây vẫn gầy còm không cưu mang được đời sống hàng ngàn người dân. Năng suất lúa vùng này chỉ đạt trên 3 tấn/ha- thấp nhất ĐBSCL!
Mô hình tôm - lúa - nhọc nhằn đất và người!
Năm 1994, phong trào nuôi tôm sú vùng ngập mặn ven biển ĐBSCL phát triển rầm rộ. Năm 1996-2000, tham khảo cách làm của huyện Duyên Hải và các tỉnh Bến Tre, Bạc Liêu , Sóc Trăng, ông Huỳnh Hiếu Bi – thời điểm này là Chủ tịch UBND huyện Cầu Ngang- đề xuất và được cho phép chuyển đổi một số xã vùng nhiễm mặn Hiệp Mỹ (nay là Hiệp Mỹ Đông, Hiệp Mỹ Tây), Mỹ Long Nam (cánh đồng Tây là một phần của Mỹ Long Nam và Hiệp Mỹ Đông) từ độc canh cây lúa sang trồng 1 vụ lúa mùa mưa, nuôi 1 vụ tôm mùa khô. 5 năm thực hiện chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên lợi thế phân chia 5 tiểu vùng được UBND tỉnh phê duyệt, Cầu Ngang đã tạo ra được bước đột phá trong phát triển kinh tế.
Thành tựu nổi bật là mô hình nuôi tôm sú công nghiệp bằng ao nổi (đất gò ven biển không làm ao chìm được) trên vùng đất nhiễm phèn, mặn, sản xuất cây lúa bấp bênh ở các xã Hiệp Mỹ Tây, Hiệp Mỹ Đông, Mỹ Long Nam. Mô hình được đánh giá là “kỳ tích”, là trí tuệ của người ven biển Cầu Ngang trong nỗ lực đi tìm một lối mở thoát nghèo.
Ông Trần Quốc Thanh, bí thư Đảng ủy xã Mỹ Long Nam bộc bạch: “Trước đây 3 năm khi nghề nuôi tôm sú ao nổi chưa phát triển, hầu hết người dân cánh đồng Tây sau mỗi vụ mùa lại quảy túi đi làm mướn kiếm sống tận TP Hồ Chí Minh, Bình Phước, Đồng Nai… Mô hình nuôi tôm sú ao nổi 3 năm liên tiếp trúng mùa đã giúp dân thoát cảnh tha phương cầu thực. Từ vùng đất sản xuất lúa một vụ bình quân trên 3 tấn/ha, thu nhập 7,5 - 8 triệu đồng/ha, trừ chi phí sản xuất xong chỉ còn khoảng 4 triệu đồng/năm cho 1 gia đình 6 miệng ăn chuyển sang nuôi tôm sú hiệu quả kinh tế đạt trên 400 triệu đồng/ha. Đây là thành công vượt trên mong đợi của người dân vùng đất khó cánh đồng Tây”.
Có một hợp tác xã càng nổi tiếng...
Với sự nỗ lực 4 nhà: nhà nước, nhà khoa học, nhà nông, nhà doanh nghiệp, Hợp tác xã Thắng Lợi (HTX TL) đã thành hình năm 2005 ở ấp 5 xã Mỹ Long Nam - mô hình nuôi tôm sú theo cung cách mới bằng hình thức góp vốn cổ đông với qui mô sản xuất khép kín 20,83 ha ra đời trong tiếng dèm pha: HTX là “hợp” để “tan rã”!
Vụ nuôi tôm sú đầu tiên năm 2005, HTX TL thả nuôi 2,1 triệu con, kết quả thu hoạch được gần 50 tấn tôm thương phẩm. Ông Dương Tấn Đởm, Phó trưởng phòng nông nghiệp- thủy sản huyện Cầu Ngang, nhận xét: “Vụ nuôi tôm sú đầu tiên tuy giá tôm thị trường giảm từ 15.000-20.000 đồng/kg nhưng tổng doanh thu đạt 3,5 tỷ đồng, trừ chi phí (khấu hao máy móc, thiết bị 3 năm đầu, thuê đất 10 năm) lợi nhuận được 21% sau 5 tháng nuôi - cao gấp 45 đến 50 lần độc canh cây lúa…”.
Thành công của HTX TL đã tạo nên sự phấn khích trong dân. Qua trưng cầu ý kiến, trên 96% hộ dân kiến nghị nhà nước sớm đầu tư để chuyển gần 1.000 ha cánh đồng Tây sang mô hình sản xuất mới.
Ông Cao Văn Đậm, xã viên HTX TL kể: “Nhà tui có 1 ha đất ruộng. Tui góp đất cộng thêm 5 triệu đồng qui ra vốn góp là 10 triệu đồng. Năm rồi lời 2,1 triệu đồng. Người trong gia đình làm việc ở HTX, có việc làm 6 tháng, thành tiền là 6,6 triệu đồng/năm – chỉ riêng lương của 1 lao động đã hơn thu nhập của cả nhà vất vả trên 1 ha lúa”.
Vụ tôm 2006 ở ĐBSCL, tôm nuôi chết hàng loạt, phải thả dặm, chi phí cao. Nhưng Cầu Ngang có hơn 70% hộ nuôi có lãi. Ngày 6-2-2006, trong chuyến về làm việc với tỉnh Trà Vinh, Bộ trưởng Bộ Thủy sản Tạ Quang Ngọc và các đồng chí lãnh đạo tỉnh đã đến tham quan HTX TL. Bộ trưởng cho rằng lợi nhuận 21% ngay vụ nuôi đầu tiên là đáng khen ngợi. Ông đánh giá cao cung cách làm ăn “cộng đồng trách nhiệm- nghĩa vụ- quyền lợi” này, đồng thời chỉ đạo ngành thủy sản nhân rộng mô hình cho các địa phương khác.
Tháng 4-2006, Thứ trưởng Bộ Thủy sản Nguyễn Việt Thắng cũng về thăm HTX TL và vui mừng khi thấy tôm nuôi vượt qua mùa dịch, phát triển tốt. Một nhóm chuyên gia của Nhật, Anh đã đến HTX TL lấy mẫu… Kết quả kiểm định đã cho họ sự yên tâm về độ sạch của sản phẩm.
400 triệu/ha chứ không phải 8 triệu/ha (nếu trồng lúa 1 vụ) hay 50 triệu/ha (như mức bộ NN-PTNT mong nhà nông đạt được từ đa dạng hóa cây trồng – vật nuôi) – quả thật là con số ngọt ngào. Nào hay đắng cay cũng bắt đầu từ đấy!
Người đứng mũi chịu sào
Trong khi HTX thắng lợi ngọt ngào, khích lệ người dân chinh phục cánh đồng Tây thì “cay đắng” đang đổ lên đầu ông Huỳnh Hiếu Bi vì những việc ông đã làm nhằm tháo gỡ vốn đầu tư cho HTX TL trên cương vị chủ tịch UBND huyện. Thực ra, việc thành lập HTX Thắng Lợi ban đầu không hề có tín hiệu “báo nguy” hụt vốn.
Ông Tư Phương Hạnh (Nguyễn Tâm Quốc) – GĐ Sở Thủy sản - trong cuộc họp tại Huyện ủy Cầu Ngang (có sự tham dự của Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Trần Văn Dơn) hứa sẽ có 2 tỷ từ nguồn vận động các doanh nghiệp tham gia. Trong những lần Sở Thủy sản họp báo cũng nhắc lại vấn đề này. Yên tâm, UBND huyện Cầu Ngang hồ hởi triển khai.
Ông Tư Phương Hạnh đầy tâm huyết, nhưng tiếc thay ông lâm bệnh qua đời. Đất đã mua, đã thuê, việc thi công cơ bản hoàn thành, thời vụ nuôi đã đến… Trong tình thế đã không thể lùi được thì dân lại kéo về UBND huyện réo đòi tiền thuê đất, mua đất…! Thường vụ Huyện ủy giao cho UBND huyện, trực tiếp là Chủ tịch Huỳnh Hiếu Bi phải cố gắng vận dụng, điều hành mọi nguồn vốn có thể được cho HTX mượn.
Kết quả: 1- mượn 260 triệu đồng vốn XDCB của huyện (những công trình chưa triển khai); 2- mượn 200 triệu đồng từ 1 dự án AAV; 3- mượn 550 triệu đồng Quỹ XĐGN của chương trình nuôi bò (giá bò tăng đột biến 10 triệu/con trong khi giá bò của chương trình chỉ 5 triệu đồng/con, huyện chờ duyệt vốn giá mới nên nguồn vốn này vào thời điểm ấy chưa sử dụng); 4- bán 1 xe đào đất của huyện cho HTX TL mượn 94,4 triệu đồng; 5- Huyện ủy giao mỗi xã, thị trấn vận động 20 cổ phần (1triệu/cổ phần) góp vào HTX TL, cho tạm ứng trước từ ngân sách xã. Có 14/15 xã, thị trấn tham gia. Đến nay, hầu hết những khoản tiền mượn này đã hoàn trả.
Việc điều chuyển các nguồn vốn như trên về nguyên tắc là trái với Luật Ngân sách, Luật HTX . Nhưng Chủ tịch huyện thực hiện từ sự chỉ đạo của Thường vụ Huyện ủy, trong hoàn cảnh bế tắc vốn; việc sử dụng đồng vốn minh bạch, đem lại một HTX TL thành công, trở thành mô hình nuôi thủy sản được đánh giá cao như đã nói trên. Thành quả của HTX TL không ai phủ nhận, điều tra không tìm thấy dấu hiệu tham ô nhưng là cán bộ lãnh đạo chính quyền cấp huyện, ông Huỳnh Hiếu Bi phải chịu trách nhiệm về những gì ông đã làm.
Trước Đại hội Đảng cấp huyện và Đại hội đảng bộ tỉnh Trà Vinh, thư nặc danh, “thơ tản mạn” nặc danh tố cáo ông Huỳnh Hiếu Bi đã được “thả rơi” ở huyện Cầu Ngang; gửi về Ủy ban Kiểm tra TƯ, Ban Tổ chức TƯ Đảng, Bộ Tài nguyên - Môi trường, lãnh đạo Tỉnh ủy - UBND tỉnh Trà Vinh…
Đáng tiếc sự việc này kéo dài hơn 1 năm qua. Tỉnh ủy Trà Vinh đã cử xuống Cầu Ngang 2 đoàn thanh tra (trưởng đoàn thanh tra thứ 2 lại là phó đoàn thanh tra thứ nhất (!?)) nhưng vẫn chưa có kết luận. Dư luận mong muốn mọi việc sớm sáng tỏ vì càng kéo dài, chậm xử lý dứt điểm càng gây phân hóa nội bộ một huyện đảng bộ vốn nổi tiếng đoàn kết - trong sạch và vững mạnh!
NGUYỄN THỊ KỲ – ĐÌNH CẢNH