
Kỹ sư Lê Tâm (tên thật là Nguyễn Hy Hiền) sinh năm 1921 tại làng Niêm Phò, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình Nho học nổi tiếng (cụ thân sinh là Nguyễn Văn Mại, từng được triều đình Huế bổ làm Chánh Chủ khảo kỳ thi Hội, chấm lấy đỗ tiến sĩ, phó bảng). Thời trẻ, Hy Hiền học xuất sắc, năm 1939 đỗ đầu “tú tài Tây” ở Huế.
Lúc bấy giờ, Hội Như Tây du học (một tổ chức khuyến học của Nam triều) mỗi năm chỉ cấp một suất học bổng cho học sinh nào xuất sắc nhất trong cả ba kỳ Bắc, Trung, Nam, giúp người ấy có thể sang Pháp học lên đại học. Hy Hiền được nhận suất học bổng đó.
Hành trình yêu nước
Thế là Nguyễn Hy Hiền rời Sài Gòn sang Pháp trên cùng một chuyến tàu thủy với Lê Văn Thiêm và từ đấy hai người trở thành đôi bạn thân. Tháng 9-1939, phát-xít Đức tiến vào nước Pháp, việc du học từ Đông Dương sang Pháp bị đình chỉ trong nhiều năm.

Kỹ sư, Đại tá Lê Tâm (người mặc sơ-mi cộc tay màu sáng) tại một cuộc họp của Bộ Tư lệnh Nam bộ năm 1948. Trong ảnh, người đeo kính râm, mặc áo bà ba màu thẫm, ngồi bên phải kỹ sư Lê Tâm là Trung tướng Nguyễn Bình.
Sau khi bổ túc kiến thức tại Trường Saint-Louis, Nguyễn Hy Hiền thi đỗ vào Trường Quốc gia Cầu - Đường, một trong mấy trường lớn của nước Pháp. Trước đó mấy năm, Phạm Quang Lễ (sau khi về nước, đổi thành Trần Đại Nghĩa) cũng theo học trường này. Căng tin của trường nằm trong khu Latin, cách Trường Đại học Sư phạm Paris – nơi Lê Văn Thiêm và Trần Đức Thảo học – chỉ vài trăm mét.
Hàng ngày, ba người và Phạm Quang Lễ thường cùng ăn cơm ở căng tin này. Tại Paris hình thành một nhóm trí thức trẻ người Việt hăng hái hướng về cách mạng, đó là Nguyễn Khắc Viện, Phạm Quang Lễ, Lê Văn Thiêm, Phạm Huy Thông, Trần Đức Thảo, Nguyễn Hy Hiền, Hoàng Xuân Nhị...
Năm 1946, Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau. Các trí thức trẻ Lê Văn Thiêm, Phạm Huy Thông, Nguyễn Hy Hiền tình nguyện giúp việc cho đoàn.
Khi nghe KS Hiền tỏ ý muốn về nước tham gia hoạt động, ông Phạm Văn Đồng tin cậy viết thư giới thiệu để đến khi trở về, nếu bị kẹt tại Sài Gòn thì KS Hiền có thể liên hệ với cơ sở bí mật của ta. Đêm 19-12-1946, chiếc tàu thủy chở KS Hiền ghé cảng Singapore, đúng vào lúc trong nước, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ngày 23-12, tàu cập bến Sài Gòn, ông tìm đến nhà BS Nguyễn Văn Hưởng, lúc đó đang công khai giữ chức Giám đốc Viện Pasteur, đưa thư giới thiệu.
Một tháng sau, KS Hiền thay bộ đồ Tây sang trọng thường mặc bằng bộ áo quần bà ba đen, lên một chiếc xe thổ mộ lóc cóc chạy về phía Củ Chi. Đến chỗ vắng, ông xuống xe, lặng lẽ len lỏi qua đồn bốt Pháp, rồi được một chú liên lạc đón, đưa ra chiến khu. Cùng ra với ông còn có ông Hoàng Xuân Nhị.
Ông được giao phụ trách ngành quân giới và vào năm 1949, trở thành một trong 7 sĩ quan đầu tiên ở Nam bộ được phong hàm đại tá.
“Tôi phải đổi cả họ tên thành Lê Tâm bởi vì nếu cứ để nguyên họ tên khai sinh thì sẽ liên lụy đến mấy trăm con người thuộc dòng họ Nguyễn Hy đang sống trong vùng địch chiếm”, ông kể lại.
Chiến trường Nam bộ không có nơi nào địa hình hiểm trở để có thể xây dựng thành An toàn khu (ATK) như vùng rừng núi Thái Nguyên – Tuyên Quang – Bắc Cạn. Các xưởng quân giới phải liên tục đổi chỗ, lúc đóng ở Đồng Tháp Mười, lúc chuyển đến chiến khu Đ, lúc lui về vùng rừng ngập mặn Bà Rịa – Vũng Tàu, khu rừng này có loài cây sác chịu mặn nên gọi là rừng Sác.
Giặc đến, ta chôn máy xuống đất. Giặc rút, ta lại đào máy lên! Khó khăn là vậy nhưng vẫn xây dựng được những xưởng quân giới lớn như xưởng của Bộ Tư lệnh Nam bộ có gần 1.000 cán bộ, công nhân, xưởng của Quân khu 8 có 300 cán bộ, công nhân. Lực lượng quân giới Nam bộ đông tới 8.000 người, sống trong rừng lầy lội, đầy muỗi, vắt, thế mà anh em vẫn chế được súng cối, bộc lôi, địa lôi, đạn súng trường, đạn súng lục, sửa chữa súng và về sau còn chế cả súng chống tăng SS...
Chiến công SS
Năm 1986, Nhà nước ta phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho công trình “Một số vũ khí đặc biệt trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)” trong đó có vũ khí SS do ông Lê Tâm và các cộng sự nghiên cứu, chế tạo thành công trong rừng Sác. |
Việc liên lạc giữa Việt Bắc và Nam bộ vô cùng khó khăn, thường chỉ bằng điện tín mật mã, ngắn gọn. Năm 1949, có một đoàn cán bộ quân giới do KS Trần Đại Nghĩa cử vào, mang theo một ít tài liệu về bazooka và SKZ nhưng điều kiện ở rừng Sác không giống ở Việt Bắc. Nhớ lại hồi 1945, TS Lê Văn Thiêm đã từng mang từ Berlin về Paris cho KS Nguyễn Hy Hiền một tập “cẩm nang” chế tạo bom bay V1, V2. Hai người cặm cụi dịch sang tiếng Việt nhưng rồi cả hai sớm nhận ra rằng, muốn chế tạo được loại vũ khí đó, phải có nền công nghiệp cơ khí và điện tử phát triển cao...
KS Lê Tâm nghĩ tới một loại súng có sức công phá bằng cỗ đại bác nặng hàng tấn thép nhưng chỉ nhẹ khoảng 5-10 kilôgam, anh bộ đội có thể vác trên vai. Muốn vậy, phải tự chế tạo được đạn lõm, loại đạn mới xuất hiện trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Khi bị kích nổ, đạn lõm chỉ tập trung năng lượng vào một luồng, đủ tạo ra sức nóng tới 3.000OC, áp suất hàng trăm át-mốt-phe, chọc thủng vỏ thép xe tăng dễ như chiếc đũa xuyên qua... cục bơ!
Loại súng này không đòi hỏi thuốc đẩy tốt như thuốc con bài mà có thể dùng thuốc đẩy thông thường của súng cối. Viên đạn lõm to hơn nòng súng, chỉ có chuôi đạn nằm trong nòng. Thuốc đẩy viên đạn bay ra phía trước và cùng một lúc đẩy khối lùi (có thể tiện bằng gỗ) bay lại phía sau, do đó triệt tiêu lực giật. KS Lê Tâm đặt tên cho loại vũ khí mới này là SS, nghĩa là Súng Rừng Sác.
Lúc bấy giờ, binh lính Pháp thường ngồi vểnh râu trong xe tăng, xe bọc thép, tàu chiến, nghênh ngang càn quét vùng căn cứ kháng chiến. Súng trường, súng máy, lựu đạn của ta chỉ “gãi ngứa” cho chúng!
Nhưng bỗng xuất hiện SS-AT bắn cháy xe tăng. Dòng kênh Nam bộ bề ngang chỉ rộng chừng 80m. Từ trên bờ kênh, anh du kích nấp trong rừng Sác, kẹp khẩu SS-B, SS-L hay SS-88 (cỡ lớn hơn SS-AT) phụt một quả đạn lõm, đạn chỉ cần bay khoảng 40m là đã có thể va vào thành tàu, nổ tung, vỏ tàu thủng, nước ùa vào, tàu chìm nghỉm!
“Ta chỉ mới dùng SS đánh mấy trận, Tây đã• chùn bước, không còn dám ngông cuồng như trước”, KS Lê Tâm nói.
Năm 1952, được Trung ương điều động, KS Lê Tâm đi bộ một mạch sáu tháng rưỡi từ Nam bộ ra Việt Bắc, dọc đường Trường Sơn. Để có thể tiếp nhận vũ khí hạng nặng từ Trung Quốc chở sang, bạn đề nghị ta mở đường mới rộng 8m, rộng hơn mặt đường quốc lộ ở ta thời ấy (6,5m), với độ dốc, độ cua thấp hơn. Đó chính là “đường ta rộng thênh thang tám thước/đường Bắc Sơn – Đình Cả – Thái Nguyên” mà Tố Hữu nhắc tới trong bài thơ nổi tiếng Ta đi tới.
Thật ra, con đường này bắt đầu từ Mục Nam Quan qua Đồng Đăng rồi mới đến Bắc Sơn và chạy tiếp về Đình Cả, Thái Nguyên, dài 150km, chỉ làm trong sáu tháng, bằng sức người và cuốc xẻng. Tốt nghiệp ngành Cầu – Đường tại Paris, KS Lê Tâm được điều từ Nam bộ ra đây để tham gia chỉ đạo mở đường, chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ...
Hòa bình trở lại trên nửa nước, ông về Hà Nội giữ chức Phó Cục trưởng Cục Kỹ thuật Đường sắt, tham gia chỉ đạo phục hồi các tuyến đường Hà Nội – Mục Nam Quan, Hà Nội – Vinh, rồi làm Chủ nhiệm Khoa Xây dựng Trường Đại học Bách khoa, Cục trưởng Cục Đo lường, Ủy viên Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ), Tổng Biên tập tạp chí Hoạt động khoa học v.v...
Hàm Châu