Dự án Luật Việc làm đã được Chính phủ trình Quốc hội cho ý kiến lần đầu tại kỳ họp này. Bà Trương Thị Mai, Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội đã trao đổi với Báo SGGP về những vấn đề mà người lao động (NLĐ) đang kỳ vọng vào luật này.
- Phóng viên: Thưa bà, Luật Việc làm vào cuộc sống có ý nghĩa như thế nào đối với NLĐ?
>> Bà TRƯƠNG THỊ MAI: Đến nay chưa có một luật riêng điều chỉnh tất cả các quan hệ về việc làm. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về việc làm hiện nay chủ yếu điều chỉnh nhóm đối tượng có quan hệ lao động (thông qua hợp đồng lao động), trong khi 65,4% lao động đang làm việc trong nền kinh tế không có quan hệ lao động thì chưa có luật điều chỉnh. Luật Việc làm điều chỉnh toàn bộ lực lượng lao động đang làm việc tại Việt Nam, nhưng các chính sách của luật này đang hướng nhiều về khu vực phi chính thức, còn khu vực chính thức đã được tập trung để điều chỉnh trong Bộ luật Lao động. Với 15 triệu lao động ở khu vực chính thức họ cũng đang vận hành theo quy định của Bộ luật Lao động trong đó quy định từ giờ làm việc, giờ làm thêm, giờ nghỉ ngơi, quy định mối quan hệ giữa NLĐ và người chủ DN, kể cả vấn đề tiền lương. Vì vậy, khu vực chính thức trong Luật Việc làm chỉ còn điều chỉnh mấy vấn đề như: chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chính sách nâng cao kỹ năng nghề…
- Cụ thể, những nội dung nào của Luật Việc làm sẽ mang lại lợi ích thiết thực nhất cho NLĐ thưa bà?
Thứ nhất, về chính sách bảo hiểm thất nghiệp, khi NLĐ đang đi làm việc, có thu nhập ổn định, công việc bình thường do chủ DN trả thì không vấn đề gì, nhưng nếu NLĐ bị thất nghiệp thì họ rơi vào khu vực phi chính thức, khi đó họ sẽ được hưởng một khoản trợ cấp trong thời gian nhất định để có thể được đào tạo nghề, đào tạo lại nghề hoặc được hỗ trợ tư vấn để quay lại thị trường lao động.
Thứ hai, chính sách tác động tới khu vực có quan hệ lao động trong Luật Việc làm là chính sách nâng cao kỹ năng nghề. Khi NLĐ đang làm việc bình thường nhưng lại có nhu cầu được xác nhận tình trạng tay nghề của họ, hoặc thiết lập một kỹ năng nghề cao hơn thì có thể đề xuất để có thể thi hoặc sát hạch để được cấp chứng chỉ kỹ năng nghề, phục vụ cho quá trình chuyển dịch công việc mới.
Một chính sách khác nữa sẽ tác động tới lực lượng đang có quan hệ lao động mà luật này đề cập, đó là thông tin dự báo về thị trường lao động. Trong quá trình phát triển nền kinh tế như thế này thì một NLĐ cũng chẳng làm việc suốt đời trong một DN hay một công việc cụ thể, kể cả trong khu vực công cũng vậy, người ta có quyền tìm kiếm một cơ hội tốt hơn cho công việc của mình. NLĐ có thể dựa vào thông tin dự báo thị trường lao động hàng tháng, hàng tuần để quyết định xem có chuyển dịch công việc hay không. Luật này ra đời sẽ tác động tốt đến vấn đề việc làm của NLĐ.
- Còn đối với các đối tượng lao động ở quy mô nhỏ lẻ thì sao thưa bà, ví dụ những cơ sở chỉ có vài nhân công, các tiệm uốn tóc, sửa xe, hộ gia đình… Họ là lao động tự tạo ra việc làm, tạo ra thu nhập cho chính họ, không phải là đối tượng được trả lương và chiếm số lượng không nhỏ trong xã hội. Luật Việc làm có bảo vệ họ?
Ngoài các vấn đề tôi vừa nêu, Luật Việc làm đưa ra các chính sách hỗ trợ tạo việc làm gồm: tín dụng nhỏ cho vay lãi suất thấp; hỗ trợ NLĐ đi xuất khẩu lao động; hỗ trợ phát triển thị trường; hỗ trợ để chuyển dịch việc làm khi đất đai bị thu hồi, tái định cư; chính sách dành cho lao động trẻ; chính sách việc làm công.
Đáng chú ý, mỗi năm chúng ta có khoảng 1 - 1,2 triệu lao động trẻ bước vào thị trường lao động; trong số 1,6 triệu việc làm mới chiếm khoảng 1,2 triệu là lao động trẻ, nên cần phải dành sự quan tâm và chính sách đặc biệt hơn. Họ chính là nguồn nhân lực hiện tại và trong tương lai của nền kinh tế. Ngoài ra, chính sách việc làm công là một chính sách hoàn toàn mới và mang tính tạm thời vận hành khi nền kinh tế có cú sốc hoặc biến động lớn và một bộ phận NLĐ bị thất nghiệp tạm thời, nhà nước có thể tổ chức để thu hút họ vào các dự án nhỏ ngay tại địa phương trong thời gian từ 1 - 3 tháng hoặc 6 tháng. Chúng tôi đang đề nghị Bộ LĐTB-XH thiết lập chính sách này trong giai đoạn ngắn để NLĐ có thu nhập sống trong thời gian ngắn và quan trọng nhất là tạo điều kiện cho họ quay lại thị trường bình thường.
- Có ý kiến cho rằng thay vì vận hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp hãy vận hành bảo hiểm việc làm?
Hiện rất ít nước trên thế giới thực hiện chính sách bảo hiểm việc làm, vì bảo hiểm việc làm là bảo hiểm cho cả DN và NLĐ. Chính sách này chỉ hiệu quả ở những đất nước mà tỷ lệ lao động trong quan hệ lao động ở mức độ cao, khoảng 80% - 90%, tức là người ta phải đóng góp rất lớn vào quỹ bảo hiểm này và đất nước đó phải là đất nước đã phát triển. Nước ta đang ở mức độ thấp, tỷ lệ lao động trong quan hệ lao động mới khoảng trên dưới 30%, lại là nước đang phát triển nên lực để hỗ trợ và điều hành quỹ bảo hiểm việc làm là không có khả năng. Tôi đề nghị chúng ta vẫn nên giữ nguyên chính sách bảo hiểm thất nghiệp, nhưng có bổ sung thêm chính sách mới là hỗ trợ một phần cho DN trong khi nền kinh tế có khó khăn để các DN duy trì việc làm. Có lẽ với mức độ hiện nay chỉ có thể dừng lại như thế. Để có chính sách bảo hiểm việc làm to lớn hơn và điều chỉnh nhiều chính sách hơn thì phải tương lai vài chục năm nữa.
- Cảm ơn bà!
LÂM NGUYÊN