Từ vụ kiện được gọi là “bán phá giá” tôm nhập khẩu của Mỹ hiện nay

Nhớ lại bài học kinh nghiệm vụ kiện cá tra, cá ba sa

Nhớ lại bài học kinh nghiệm vụ kiện cá tra, cá ba sa

Việc Bộ Thương mại Mỹ (DOC) mới đây công bố quyết định sơ bộ về cái gọi là “mức biên phá giá đối với tôm nhập khẩu” từ Việt Nam và Trung Quốc, dù phi lý, nhưng vẫn là điều không ngoài dự đoán đối với nhiều nhà kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam. Bởi bài học về vụ kiện “bán phá giá” cá tra, cá ba sa vẫn còn nóng hổi. 

Nhớ lại bài học kinh nghiệm vụ kiện cá tra, cá ba sa ảnh 1
Chế biến tôm xuất khẩu. Ảnh Việt Dũng

Đối với các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu tôm củaViệt Nam, DOC áp đặt “mức biên phá giá”ù từ 12,1% đến 93,13%, còn của Trung Quốc, từ 7,67% đến 112,81%. Và dự kiến đến ngày 24-11-2004, DOC sẽ có quyết định chính thức về “biên độ phá giá” để trên cơ sở này, ngày 8-1-2005, Ủy ban Thương mại Mỹ sẽ có phán quyết về mức thuế chống phá giá. Như vậy, DOC đã phớt lờ những số liệu của phía Việt Nam cung cấp, không nhìn nhận một thực tế là Việt Nam không có chuyện bán dưới giá thành sản phẩm. 

Ngay sau khi DOC công bố quyết định sơ bộ, Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam lập tức lên tiếng phản đối, Phòng Thương mại Mỹ tại Việt Nam cũng bày tỏ không đồng tình và Liên minh Hành động thương mại, công nghiệp và tiêu dùng và Hiệp hội Phân phối hải sản Mỹ ra thông cáo báo chí khẳng định sẽ tiếp tục đấu tranh chống lại thuế chống bán phá giá đối với tôm nhập khẩu từ Việt Nam và Trung Quốc. Dù vậy, ai cũng thấy rõ là cuộc đấu tranh này không dễ dàng và các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước nguy cơ mất thị phần tại Mỹ. Hiện nay, đối với nhiều doanh nghiệp, thị trường Mỹ chiếm đến trên 40% tổng kim ngạch xuất khẩu. 

Tuy nhiên, kinh nghiệm từ vụ kiện của Mỹ đối với cá tra, cá ba sa Việt Nam cho thấy, nếu biết chủ động ứng phó kịp thời, doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thể vượt qua cơn khó khăn. Chúng ta còn nhớ, sau vụ kiện cá tra, cá ba sa, thị trường xuất khẩu các loại cá này giảm mạnh, các doanh nghiệp chế biến giảm thu mua, giá cá hạ, người nuôi nản lòng. Thế nhưng, từ trong khó khăn, nhiều doanh nghiệp đã nhanh chóng chuyển mình, năng động tìm thị trường mới như Trung Quốc, Hồng Công, Singapore, Canada… và nhất là EU. 

Nhiều lãnh đạo các địa phương có nuôi cá tra, cá ba sa xắn tay cùng doanh nghiệp lên vùng cao, vùng sâu, vùng xa mở rộng thị trường nội địa. Nhiều doanh nghiệp chế biến đa dạng hóa mặt hàng, mở rộng mạng lưới tiêu thụ nội địa, phục vụ hữu hiệu cho bữa ăn hàng ngày của nhân dân. Kết quả, trước vụ kiện, chúng ta chỉ có 16 nhà máy chế biến cá tra, cá ba sa, nhưng đến nay đã có gần 30 nhà máy, tăng gấp đôi công suất. 

Và nhờ có vụ kiện, các nhà nhập khẩu và phân phối của châu Âu biết nhiều về cá tra, cá ba sa Việt Nam, nên chỉ trong một thời gian ngắn, lượng cá tra, cá ba sa xuất khẩu vào thị trường này tăng mạnh. So với trước vụ kiện, lượng cá tra, cá ba sa xuất khẩu của ta tăng thêm 50%, trong đó thị trường châu Âu tăng 2,5 lần, châu Đại Dương tăng 3,5 lần, châu Á tăng 70%… Riêng thị trường trong nước, hiện nay, giá cá tra, cá ba sa cao nhất từ trước đến nay, đặc biệt là cá tra nuôi ao hầm. 

Bài học kinh nghiệm từ vụ kiện cá tra, cá ba sa giúp chúng ta vững tin trong “cuộc chiến” con tôm hiện nay và cho những “cuộc chiến” sau này khi hội nhập kinh tế thế giới.

VÕ HÀN LAM

Tin cùng chuyên mục