Niềm vui... thất mùa

Niềm vui... thất mùa

Đầu tháng 5 Âm lịch, vải bắt đầu chín. Những ngày này, suốt dọc tuyến đường về Lục Ngạn của Bắc Giang, vùng đất hiện có diện tích trồng vải lớn nhất ở miền Bắc, đâu đâu cũng thấy vải dù gần một tuần nữa vải mới bắt đầu chín rộ. Đoạn đường từ phố Kim của xã Phượng Sơn qua thị trấn Chũ dài gần hai chục cây số, đâu đâu cũng là chợ vải.

Cứ chừng ngót trăm mét lại có một điểm tập kết vải. Màu đỏ tươi của vải vừa chín tới xếp cao có ngọn cứ rực lên dưới nắng. Ở ven đường, xe lạnh lớn bé xen kẽ với xe tải mang biển số Thanh Hóa, Vinh, Phú Thọ, Ninh Thuận, TP Hồ Chí Minh... nằm dài chờ hàng. Quanh các “chợ” vải cơ man là kẻ bán, người mua.

  • Vải thiều không đỏ…

Tiếng gọi nhau, tiếng ngã giá, tiếng động cơ xe máy, xe tải trộn vào nhau ồn ã… Mới đầu mùa, vải chưa chín rộ mà giá vải đã bắt đầu giảm. Đầu vụ, vải đẹp bán được 10 – 12 ngàn đồng/kg, chưa đầy tuần, hôm thứ bảy, ngày 4-6, giá vải bán buôn tại phố Kim xuống còn 6.500đ/kg - 7.500đ/kg.

Sáng hôm sau, chủ nhật 5-6, giá vải tụt xuống còn 5.500đ/kg - 6.000đ/kg và đến chiều cùng ngày, thương lái chỉ mua với giá 5.000đ/kg! Chăm chút cả năm cho một mùa thu hoạch, người trồng vải đặt tất cả hy vọng vào lúc này, vậy mà… Ở vườn nhà anh Nam, một trong rất nhiều nông dân chỉ sống nhờ vào cây vải, những gốc vải trên 5 năm tuổi trĩu quả bắt đầu chín.

Theo dự tính của anh, năm nay cả vườn có thể cho khoảng 6 tấn vải. “Với tình hình giá cả như hiện nay, sau khi trừ hết các chi phí, gia đình chỉ thu được chưa đầy 7 triệu đồng để chi tiêu cho cả năm trong khi chờ đến mùa thu hoạch năm tới…”.

Niềm vui... thất mùa ảnh 1

Chợ vải ở phố huyện, nơi người dân mang những quả vải của mình tới với hy vọng sẽ bán được giá cao hơn.

Không khác gì số phận của những loại nông sản khác, điệp khúc “càng chín rộ giá càng rớt” cũng lặp đi lặp lại theo mùa với trái vải thiều Lục Ngạn, một đặc sản mà mỗi năm chỉ có độc một vụ kéo dài không quá hai tháng ở miền Bắc nước ta. “Nhiều người cho rằng màu đỏ là màu tượng trưng cho may mắn, màu của sự “mua may bán đắt”.

Trái vải cũng đỏ tươi mà số nó chẳng được đỏ như màu”. Đã có người cảm thán nói vậy khi nhận định về sự chìm nổi của trái vải trên thương trường. Mùa vải năm 2004, giá bán buôn trái vải đầu mùa xấp xỉ 15.000đ/kg. Đến lúc vải chín rộ, giá tụt xuống còn 2-3 ngàn đồng/kg rồi nhích lên và dừng luôn ở mức 4.000đ/kg lúc cuối vụ.

Năm nay, ngay từ đầu vụ giá đã không được như năm trước, người trồng vải đang lo không biết trong những ngày tới giá vải sẽ rớt đến mức nào.

Vài năm gần đây, ở thị trường phía Bắc, trái vải tươi cung đã vượt cầu, nhất là khi vải vào mùa chín rộ; vả lại, số lượng vải tiêu thụ tại thị trường phía Bắc chiếm con số khá nhỏ, chỉ khoảng 10% - 15% sản lượng vải tươi bán ra thị trường (theo ước tính của giới thương nhân, mỗi mùa vải, có khoảng 60% - 70% tổng sản lượng được bán tươi, 25% được sấy khô và 10% dành để đóng hộp) còn lại đều được tiêu thụ tại thị trường phía Nam hoặc xuất sang Trung Quốc.

Mấy ngày nay, ở TPHCM, vải thiều bắt đầu xuất hiện với giá 15.000 – 22.000đồng/kg tùy hàng được vận chuyển bằng xe tải hay bằng máy bay. Nhìn vào sự chênh lệch giá khá lớn ấy, có thể thấy rõ sự thiệt thòi của người nông dân trồng vải quanh năm một nắng hai sương.

Tuy vậy, cũng cần biết rằng để đến được phương Nam, trái vải phải trải qua một quãng đường dài mà những khó khăn về bảo quản đã ngốn của chủ hàng những khoản tiền không nhỏ. Theo giới tài xế chuyên vận chuyển hàng tuyến Bắc – Nam, giá thuê một chiếc xe lạnh (loại có tải trọng nhỏ) từ Bắc vào Nam trong thời gian không quá 48 giờ đồng hồ khoảng 5 triệu đồng, chưa tính các chi phí phát sinh trên đường.

Vì thế, không ít người kinh doanh mặt hàng này đã phải méo mặt vì lỗ. Anh H.Đ, một tư thương chuyên mang vải thiều đi bán ở cửa khẩu Tân Thanh (Lạng Sơn) cho biết thêm ngoài chi phí lớn cho việc vận chuyển, bảo quản, buôn bán vải lên biên giới còn gặp nhiều trắc trở khác vì phải qua rất nhiều khâu trung gian và luôn bị động, lép vế trước các kiểu ép giá của thương nhân nơi biên giới.

Cũng theo anh H.Đ, vải được vận chuyển lên biên giới bằng hai cách: xe đông lạnh hoặc xe tải. Giá thuê một chiếc xe đông lạnh cao nên chỉ một số rất ít vải đến được biên giới bằng cách này, còn hầu hết đều được đóng vào trong thùng xốp giữa có đặt nước đá được quấn kín trong nhiều lớp nilon.

Với cách bảo quản này, cứ chậm tiêu thụ một ngày là số lượng vải bị đổi màu hoặc úng, dập tăng lên rất nhanh. Hàng bị ghim lại chừng 3 ngày ở cửa khẩu coi như chỉ còn cách đem đổ. Hao hụt lớn, chi phí cao nên để đảm bảo lợi nhuận, tư thương tìm mọi cách ép giá với nông dân…

Vải tươi đã vậy, vải sấy khô cũng chẳng khá hơn. Thị trường chính tiêu thụ vải sấy khô cũng là Trung Quốc. Vì là xuất tiểu ngạch nên chẳng có gì đảm bảo cho đầu ra của mặt hàng này. Mặt khác, việc sấy vải hiện nay được thực hiện không theo một quy chuẩn nào. Người trồng vải tự làm đủ loại lò sấy, hầu hết đều là lò đốt bằng than nên trái vải sấy không giữ được mùi thơm thuần, cùi vải sau khi sấy trở màu đen, trông không hấp dẫn.

Chất lượng vải sấy như thế nên giá bán không thể cao. Việc chế biến vải đóng hộp cũng chẳng khá hơn. Công ty Thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang đóng ngay tại huyện Lục Ngạn là công ty chế biến vải quả lớn nhất của Tổng Công ty Rau quả Việt Nam. Thế nhưng, với năng lực sản xuất hiện nay, có chạy hết công suất, mỗi mùa vải công ty cũng chỉ tiêu thụ hết 2.000 tấn vải quả của toàn huyện. Con số này chỉ xấp xỉ bằng sản lượng vải của một xã ở Lục Ngạn.

  • Thất mùa nhưng vui

Lục Ngạn hiện có khoảng 15.000 ha vải, trong đó, có 13.500 ha đang cho trái. Theo Phòng Nông nghiệp huyện Lục Ngạn, do thời tiết năm nay diễn biến thất thường, lại khô hạn nặng khi vải tới thời điểm ra hoa nên sản lượng vải toàn huyện vụ 2005 ước đạt chừng 38.000 đến 40.000 tấn, chỉ bằng 60% so với năm trước.

Vải thất mùa nhưng xem ra bà con nông dân Lục Ngạn không buồn nhiều. Trước tiên là do mức độ thất mùa không lớn, vì thế, bà con hy vọng giá vải khi rộ vụ sẽ không rớt nhiều như mọi năm. Điều đó sẽ giúp bà con bù lại khoản thiếu hụt về sản lượng.

Thứ hai, mới đây, HTX cơ khí Lạng Giang đã chào hàng với người trồng vải Lục Ngạn máy sấy vải cải tiến. Tùy theo công suất nhỏ hay lớn, các loại máy sấy của hợp tác xã có giá bán từ 6,5 đến 11 triệu đồng/máy. Đây là mức giá chấp nhận được với số đông người trồng vải.

Cấu tạo của lò sấy cải tiến, theo ý kiến của nhiều nông dân, ngoài việc giúp nông dân dễ vận hành còn có thể chủ động phân phối nhiệt khiến cùi vải trắng, đẹp, giữ được hương thơm tự nhiên và đảm bảo chất lượng theo yêu cầu xuất khẩu. “Với lò sấy này, nếu năm nay giá vải bán tươi quá thấp, chúng tôi có thể giữ lại một phần sản phẩm của mình và đưa vào lò sấy, chờ khi nào được giá mới bán”. Một nông dân ở Lục Ngạn cho biết vậy.

Bên cạnh tin vui này mới đây, người trồng vải Lục Ngạn thêm phấn khởi khi hay tin vụ vải năm nay, dây chuyền làm nước ép vải nguyên chất do Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang đầu tư thời gian qua cũng sẽ đi vào hoạt động. Với sự góp mặt của dây chuyền này, vải tươi Lục Ngạn có thêm một kênh tiêu thụ mới.

Và cuối cùng, vào cuối tháng 5-2005, trước khi vào vụ vải, nhiều tờ báo trong nước đưa tin Việt Nam đã ký được hợp đồng xuất khẩu trực tiếp trên 500 tấn vải thiều sang một số thị trường mới ở Nga và một số nước châu Âu; ngoài ra, Việt Nam còn thỏa thuận được với Malaysia về xuất khẩu trực tiếp vải thiều sang nước này.

Hy vọng những hợp đồng này sẽ tiếp thêm luồng sinh khí mới cho đầu ra của vải Lục Ngạn và bước vào chính vụ vải năm nay, người trồng vải không phải ngậm ngùi bán mà như cho sản phẩm mồ hôi nước mắt của mình. Khi bài báo này lên khuôn, chỉ còn vài ba ngày nữa là vải Lục Ngạn bắt đầu chín rộ. Thông tin gần nhất chúng tôi nhận được, giá vải tươi bán buôn vẫn đứng ở mức 5.000đ/kg!  

Quang Lộc

Tin cùng chuyên mục