Siết chặt nguồn thải ô nhiễm

Nguồn thải ô nhiễm là nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm chất lượng nguồn nước kênh rạch nội thành. Kế đến là suy giảm chất lượng nguồn nước sông, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn cấp nước phục vụ sinh hoạt của người dân TPHCM. Thời gian qua, mặc dù các cơ quan chức năng đã nỗ lực triển khai nhiều giải pháp nhằm ngăn chặn nguồn thải ô nhiễm, nhưng hiệu quả còn rất hạn chế.
Siết chặt nguồn thải ô nhiễm

Nguồn thải ô nhiễm là nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm chất lượng nguồn nước kênh rạch nội thành. Kế đến là suy giảm chất lượng nguồn nước sông, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn cấp nước phục vụ sinh hoạt của người dân TPHCM. Thời gian qua, mặc dù các cơ quan chức năng đã nỗ lực triển khai nhiều giải pháp nhằm ngăn chặn nguồn thải ô nhiễm, nhưng hiệu quả còn rất hạn chế.

  • Doanh nghiệp: Thải... bừa

Theo kết quả chất lượng nguồn nước mà Sở Tài nguyên - Môi trường (TN-MT) TPHCM vừa công bố, nước tại hệ thống kênh rạch ở TPHCM đều bị ô nhiễm nặng. Các thành phần như BOD5 (nhu cầu oxy sinh học), COD (nhu cầu oxy hóa học), chỉ tiêu vi sinh (coliform), hàm lượng chất lơ lửng (SS), kim loại nặng... đều vượt tiêu chuẩn từ vài chục đến cả ngàn lần cho phép. Tình trạng ô nhiễm càng trở nên đậm đặc hơn khi thủy triều thấp.

Lý giải thực tế này, theo bà Bùi Thanh Tâm Phương, Phòng Quản lý môi trường của Sở TN-MT TPHCM, hiện trên địa bàn thành phố còn rất nhiều doanh nghiệp (DN) sản xuất không chịu đầu tư hệ thống xử lý nước thải mà trực tiếp thải thẳng ra kênh rạch, ao hồ.

Đơn cử như Công ty Thừa Huân hoạt động trong lĩnh vực bọc vải khung xe đạp; Công ty May mặc Triple Vietnam xả trực tiếp ra ao cá hay Công ty Sản xuất bánh kẹo Lai Phú, Công ty Nội thất Đồng Nhân, Công ty Sản xuất nhựa Đô Thành, Công ty Gạch Thanh Bình, Công ty Sản xuất gỗ Nghiêm Khắc Vina… không đầu tư hệ thống xử lý nước thải. Toàn bộ nước thải phát sinh trong quá trình sản xuất đều thải thẳng ra kênh rạch. Kết quả đo đạc kiểm tra chất lượng nguồn nước thải của các công ty đã cho thấy nồng độ BOD5, COD… luôn ở mức cao, vượt mức quy chuẩn cho phép nhiều lần. Vậy thử hỏi làm sao nước kênh rạch không “chết” cho được, bà Phương nhấn mạnh.

Thành phố đang gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý, thống kê các nguồn thải. Nhiều DN vi phạm thường chậm triển khai các biện pháp khắc phục vì nhiều lý do chủ quan và khách quan như thiếu đất xây dựng hệ thống xử lý chất thải; thiếu vốn đầu tư; vận hành hệ thống xử lý nước thải không hiệu quả. Đáng lo ngại nhất là hiện có nhiều cơ sở sản xuất ô nhiễm dù đã được di dời vào khu chế xuất, khu công nghiệp, cụm tiểu thủ công nghiệp nhưng vẫn “tính nào tật đó”. Họ xây dựng hệ thống xử lý nước thải chỉ để đối phó với cơ quan chức năng và vẫn lén lút thải trực tiếp ra kênh rạch. Chính việc làm này đã tác động xấu đến môi trường nước trên địa bàn thành phố, khiến nguồn nước bị ô nhiễm trên phạm vi rộng trong những năm gần đây.

Nhân viên một nhà máy tại Khu công nghiệp Vĩnh Lộc đang kiểm tra nồng độ các chất trong nước thải tại khu xử lý nước thải. Ảnh: KIM NGÂN

Nhân viên một nhà máy tại Khu công nghiệp Vĩnh Lộc đang kiểm tra nồng độ các chất trong nước thải tại khu xử lý nước thải. Ảnh: KIM NGÂN

  • Cơ quan chức năng: Siết... luật

“Vừa chồng chéo nhưng vừa tồn tại nhiều khoảng trống trong Luật Bảo vệ môi trường đang là nguyên nhân khiến cho số lượng DN vi phạm môi trường vẫn không giảm”, ông Nguyễn Thế Đồng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, khẳng định. Điển hình nhất là hiện có rất nhiều cơ quan chức năng có quyền hạn thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường. Ở cấp trung ương có Bộ TN-MT, Bộ Công an. Ở địa phương có sở TN-MT, công an tỉnh, thành. Ở quận huyện có phòng TN-MT, công an quận huyện. Còn nếu ở khu công nghiệp thì còn có thêm bộ phận thanh tra môi trường của ban quản lý khu chế xuất - khu công nghiệp.

Điều đáng nói là ở cấp nào thì các cơ quan chức năng này cũng đều được quyền thành lập đoàn thanh tra, kiểm tra môi trường DN. Do vậy mới có tình trạng cùng một DN nhưng trong một tháng có thể tiếp đến hàng chục đoàn kiểm tra về môi trường. Đó là chưa kể mỗi đoàn kiểm tra có cách xác định hành vi vi phạm, mức độ vi phạm môi trường khác nhau, dẫn đến mức xử phạt cũng khác nhau.

Trong khi đó, những biện pháp nhằm chấm dứt triệt để hành vi vi phạm môi trường của DN như khởi tố chủ DN vi phạm hoặc cưỡng chế, buộc DN tạm ngưng sản xuất thì lại nương tay, thiếu kiên quyết. Chỉ mới gần đây, Sở TN-MT TPHCM thực hiện cưỡng chế 4 DN đen cố tình tái vi phạm môi trường nhiều lần. Còn ở các tỉnh, thành khác thì gần như việc này chưa được thực thi. Về phía cộng đồng, dù rất muốn hỗ trợ, tham gia trong việc giám sát chấp hành Luật Bảo vệ môi trường của DN với cơ quan chức năng nhưng người dân chưa được thông tin đầy đủ.

Để quản lý môi trường nước được tốt, nhóm chuyên gia JICA, Nhật Bản (đơn vị tài trợ dự án bảo vệ môi trường nước ở Việt Nam) cho biết, cần phải giám sát chặt hoạt động các DN có quy mô lớn và xử lý thật nghiêm nếu họ có hành vi vi phạm môi trường; phát huy hơn nữa vai trò tham gia của cộng đồng trong việc hoạch định và thi hành chính sách về môi trường. Xây dựng cộng đồng trở thành lực lượng có vai trò chính yếu trong việc giám sát, phát hiện và tố giác những trường hợp gây ô nhiễm môi trường. Các cơ quan chức năng môi trường cần siết chặt việc thực hiện chế độ báo cáo môi trường định kỳ; buộc các đối tượng vi phạm phải có biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường do hoạt động của mình gây ra.

Riêng đối với các DN sản xuất kinh doanh các loại hình nhạy cảm ô nhiễm nguồn nước như dệt nhuộm, giấy, bột ngọt, chế biến hải sản… nhất thiết phải thực hiện nghiêm túc các quy định về bảo vệ môi trường. Đối với trường hợp xin cấp phép mới, công tác thẩm tra, đánh giá tác động môi trường cần được cân nhắc, xem xét thận trọng hơn. 

ÁI VÂN – MINH HẢI

Tin cùng chuyên mục