Không ít lần khi đi qua Trung tâm Hội nghị Quốc gia tại Mỹ Đình, Từ Liêm, Hà Nội, tôi lại ngoái nhìn mái nhà hình sóng lượn. Chủ ý sâu xa của người thiết kế thế nào, có phải đó là hình tượng của Biển Đông dậy sóng được thể hiện bằng ngôn ngữ kiến trúc? Cái vùng nước mặn mênh mông ở phía Đông dải đất cong cong chữ S, một phần thiêng liêng của lãnh thổ Việt Nam chưa bao giờ yên ả.
Đã có bao ngọn sóng dựng cao bởi xoáy lốc bão tố của thiên nhiên. Từ xưa đến nay, đã từng xảy ra những cuộc đối chiến giữa những người yêu nước và quân xâm lược ở đây. Cuộc chiến giữ gìn biển đảo của Tổ quốc đã, đang và sẽ vô cùng nghiệt ngã, vô cùng phức tạp, vô cùng dài lâu. Biển, từng ấy cây số vuông. Đảo, nổi chìm ngần ấy hòn. Nhưng, thời gian sẽ là thăm thẳm với những thách thức khổng lồ mà dân tộc Việt cần phải vượt qua.
Hình như, hình tượng Biển Đông dậy sóng trên mái nhà Trung tâm Hội nghị Quốc gia đã “vận” vào số phận định mệnh dân tộc ta ở hai chiều quá khứ và tương lai. Số phận của một dân tộc, đất không rộng lắm, người không đông lắm, đến đầu thế kỷ 21 mới rụt rè bước qua ngưỡng những nước có thu nhập trung bình đã từng, đang và sẽ gắn mãi với Biển Đông. Danh dự của dân tộc sẽ là đây, tương lai của dân tộc cũng sẽ là đây; nhất định như thế, không thể nào khác được.
Thuở bé thơ, tôi đã nhìn ra biển. Mùa lặng sóng. Cửa Gianh quê tôi sớm sớm mặt trời lên chói lòa rạng rỡ. Mùa biển động. Tiếng sóng vỗ ầm ào vào bãi cát cách xa mấy cây số vẫn nghe. Biển là một phần quê đau đáu của tôi với những cánh buồm nâu buồm trắng nhấp nhô, với mỗi cơn gió nồm mát rượi thổi căng bầu trời mùa hạ cao xanh, với mùi thơm cá trích nướng lan tỏa đêm đêm, với thìa nước mắm cốt đậm đà thít tha đầu lưỡi, với nụ hôn đầu đời bên chân sóng mặn…
Chưa dứt trong tôi lời hát ru buồn buồn của mạ tôi giữa mang mang gió biển thổi vào: Trời Nam biển Bắc bao nỗi nhớ thương/ Ơn cha nghĩa mẹ lỗi đạo thường báo đáp. Dân Việt mình hay mượn rừng biển để bày tỏ cái kín đáo ủ giữa tâm can. Trong những lần về quê, trước mênh mang trời biển, tôi vẫn thường đặt câu hỏi với Cửa Gianh: Ở đâu, năm 1471, Vua Lê Thánh Tông khi đi đánh Chiêm Thành đã tức cảnh sinh tình đưa bút phác nên bài thơ Linh Giang Hải tấn?
Xin được trích 2 câu cuối trong bài thơ làm theo thể Đường luật của đấng hiền minh này: Ký nam thánh hóa hoằng nhu viễn/ Khẳng hạn phong cương ngoại đạo vi (Dịch nghĩa: Bậc thánh nhân đi giáo hóa đến miền Nam để vỗ về phương xa/ Không vì ngoài biên cương hiểm trở mà bỏ người dân nơi hải đảo này).
Chao ôi, từ thời xa xưa biên cương biển đảo đã là mối toan lo vời vợi của ông cha. Cân nhắc cương nhu để nghĩ ra những kế sách và tập trung nhân tài vật lực nhằm giữ gìn giang sơn bờ cõi mãi là việc phải làm, nên làm, đặng cho xứng với Tuyên ngôn Đại Việt: Nam quốc sơn hà Nam đế cư…
Nhắc lại, đọc lại người xưa để ngẫm nghĩ kỹ hơn, sâu hơn về bàn cờ thế cuộc, thời vận bây giờ. Vật đổi sao dời, bao phen dâu bể, thế mà sau nghìn năm, những mưu toan bành trướng chiếm đoạt hình như không thay đổi mấy. Và, có vẻ như sau khi xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh trong đó có chiếc tàu sân bay đầu tiên sắp được hạ thủy, họ đang từng bước biến cái lưỡi bò trên bản đồ thành chiếc lưỡi bò thật trên Biển Đông.
Chiếc lưỡi bò do họ vẽ ra chiếm hàng triệu cây số vuông biển. Họ cũng biết rằng, trở ngại lớn nhất của họ khi thực thi chiến lược Biển Đông là Việt Nam và vụ Bình Minh 02… là khúc dạo đầu của họ trong cuộc Nam tiến trên đại dương.
Đêm qua ngồi xem lại những trang nhật ký đi Trường Sa bỗng xao lòng quá. Chuyến đi của tôi ra quần đảo thân yêu của Tổ quốc đã hơn 10 năm rồi mà những hình ảnh về cảnh vật và con người ở đây vẫn hiện rõ mồn một, rất sinh động.
Hành trình Trường Sa ngân rung trong tôi những cung bậc tình cảm không dễ gì đánh đổi được qua những hải lý biển Việt thương yêu. Tôi đã đi qua đảo Trường Sa lớn, Đá Tây, Tốc Tan, Phan Vinh, Thuyền Chài, Tiên Nữ, Núi Le, An Bang… rồi sau đó trên hải trình trở lại đất liền ghé thăm các nhà giàn DK1.
Đến đâu cũng gặp cuộc sống Việt, tâm hồn Việt, tinh thần Việt, văn hóa Việt tỏa sáng. Tiếng Việt, ngôn ngữ mẹ đẻ của tôi nghe giữa trùng khơi càng thân quen thương mến. Những gì bình thường nhất ở đất liền khi ra đảo, nhà giàn cũng làm ta rưng rưng muôn nỗi. Một người lính trên nhà giàn đã nói với tôi: “Chúng em nghe tiếng gà gáy như nghe tiếng quê”.
Giản dị mà sâu sắc quá. Đứng nơi đầu sóng ngọn gió, mỗi người lính, người dân trên biển đảo Tổ quốc là một cột mốc sống của cương vực bờ cõi. Những công dân Việt Nam ấy, từ người kỹ sư công nhân dầu khí, quan trắc khí tượng đến nhà khoa học, người lính đảo lính tàu tới những người dân bình thường đánh bắt hải sản trên vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa là một phần Tổ quốc ở phía Đông.
Họ, bất chấp hiểm nguy để mỗi ngày, mỗi ngày khẳng định lãnh hải không thể chối cãi của đất nước trên một vùng trời nước mênh mang. Đó cũng là sự kế tiếp hành trình xưa của ông cha ra biển đảo muôn vàn gian truân để hôm nay ta có những Bạch Long Vỹ, Cô Tô, Quan Lạn, Hòn Mê, Cồn Cỏ, Côn Lôn, Phú Quốc… và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa yêu dấu.
Cả dân tộc chạy tiếp sức trong hành trình dài lâu ra biển với tinh thần tự tôn tự trọng Việt Nam. Sẽ có những thế lực ngáng trở phá hoại hành trình đó, sẽ có những hành động càn quấy của kẻ tham lam cậy thế mạnh giàu. Và, hệ quả tất yếu sẽ là Biển Đông dậy sóng. Dậy sóng không phải từ những tâm bão thiên nhiên mà từ những mưu mô xâm chiếm của kẻ vẽ nên chiếc lưỡi bò quái đản kia.
Kẻ gieo gió ắt sẽ gặp bão. Nói theo cách dân gian Đất Việt là thế. Nói theo cách của Lý Thường Kiệt là Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Thất bại đang chờ lũ chúng bay. Nói theo cách Nguyễn Trãi là Dơ bẩn thay! Nước bể không rửa hết mùi./ Lẽ nào trời đất tha cho,/ Ai bảo thần nhân nhịn được? Nói theo Hồ Chí Minh là: Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…
Vẫn tin rằng, sẽ có một ngày như Trương Hán Siêu ngày xưa, trước biển mênh mông, ta vừa đi vừa ca rằng: Sông Đằng một dải dài ghê /Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về Biển Đông /Những người bất nghĩa tiêu vong /Nghìn xưa chỉ có anh hùng lưu danh…
Tháng 6 năm 2011
Nguyễn Hữu Quý