Xuất khẩu tôm: Doanh nghiệp thiếu “thẻ thông hành”

Sản xuất cầm chừng
Xuất khẩu tôm: Doanh nghiệp thiếu “thẻ thông hành”

Xuất khẩu thủy sản, trong đó có tôm, được coi là ngành công nghiệp mũi nhọn ở ĐBSCL. Vậy nhưng bài toán nguồn tôm nguyên liệu phục vụ cho chế biến đến nay vẫn chưa có lời giải. Đến mùa vụ, doanh nghiệp xuất khẩu lại kêu “khát tôm”, còn nguồn tôm do nông dân sản xuất ra lại thay nhau tuồn ra ngoài?

Doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cần liên kết với nông dân để chủ động nguồn tôm nguyên liệu.

Doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cần liên kết với nông dân để chủ động nguồn tôm nguyên liệu.

Sản xuất cầm chừng

Theo Bộ NN-PTNT, đến thời điểm hiện tại, xuất khẩu thủy sản vẫn chiếm ưu thế trong các mặt hàng xuất khẩu của nước ta. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản hiện phải sản xuất cầm chừng vì khan hiếm nguồn tôm nguyên liệu.

Hiện giá thu mua tôm sú nguyên liệu đang ở mức cao, loại 30 con/kg đã vượt mức 280.000 - 290.000 đồng/kg, còn tôm loại 40 con/kg cũng mức 250.000 đồng/kg. Đối với giá tôm thẻ cũng ở mức khá cao, hiện loại 40 con/kg có giá 230.000 - 240.000 đồng/kg. Với giá thu mua này, cộng thêm chi phí phát sinh, giá tôm nguyên liệu hiện nay gần như đạt mức kỷ lục và muốn kiếm lãi từ con tôm xuất khẩu không phải là chuyện dễ. Theo ông Trần Tuấn Khanh, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Công ty Trang Khanh, Bạc Liêu: “Để duy trì sản xuất, công ty hiện chỉ tập trung chế biến con tôm thẻ chân trắng chứ không có tôm sú. Giá tôm thẻ hiện cũng rất cao và chắc chắn sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận của doanh nghiệp”.

Lợi nhuận giảm, nhưng doanh nghiệp phải cố gồng mình sản xuất để giữ thị trường cũng như những khách hàng truyền thống, hoặc phải thanh toán những hợp đồng đã ký kết trước đó. Không có tôm cũng kéo theo tình trạng thất nghiệp của nhiều lao động công nhật, khi mọi chi phí sinh hoạt đều trông chờ vào việc lột con tôm sú. Bà Lê Thị Quyền, một công nhân, than thở: “Qua tết đến giờ lột tôm bữa có, bữa không. Khổ lắm! Không có việc làm nhưng ngày nào cũng phải ăn, rồi trả tiền nhà trọ, tiền điện nên đời sống công nhân thủy sản vất vả lắm!”.

Chớ trách nông dân!

Vấn đề đặt ra: Tại sao khó khăn này mãi cứ tồn tại ngay trên vùng đất được coi là “mỏ tôm”? Và lỗi này có phải do nông dân hay ngành nông nghiệp? Vì một số doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cho rằng: nguyên nhân khan hiếm nguồn tôm nguyên liệu là do ngành nông nghiệp chưa làm tốt công tác tổ chức sản xuất, còn bà con cứ bán tôm ra các tỉnh khác và cho cả thương lái Trung Quốc.

Nói một cách công bằng, khan hiếm nguồn tôm nguyên liệu lâu nay có một phần trách nhiệm từ các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu. Doanh nghiệp đến mùa vụ cứ than thiếu tôm, nhưng đến nay vẫn chưa có doanh nghiệp nào mạnh dạn kết hợp với nông dân để sản xuất theo quy trình khép kín. Người nuôi tôm cứ phải tự xoay xở từ đầu vào đến đầu ra và gánh chịu tất cả những rủi ro trong quá trình sản xuất. Vì vậy, sản phẩm họ vất vả làm ra phải bán cho người mua được giá. Dù thương lái ấy là người Trung Quốc hay các doanh nghiệp ngoài tỉnh cũng không thể trách họ, vì đó là quy luật thị trường.

Mặc khác, thiếu nguồn tôm cũng không thể đổ lỗi cho ngành quản lý, vì nuôi tôm phải thực hiện đúng theo lịch thời vụ, nhằm đảm bảo nguồn nước, chủ động phòng chống dịch bệnh và hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất. Đây cũng là mô hình hướng đến sản xuất bền vững cho một vụ tôm nuôi ăn chắc trong năm. Còn muốn nuôi tôm theo mô hình công nghiệp hiện đại để chủ động về nguồn nguyên liệu thì phải có nhiều vốn đầu tư. Và muốn làm được việc này không ai khác ngoài vai trò của doanh nghiệp, chứ nông dân không thể tự đầu tư hàng chục tỷ đồng cho mô hình nuôi tôm theo kiểu “siêu thâm canh” lúc nào cũng có tôm như Công ty Hải Nguyên, xã Vĩnh Trạch Đông, TP Bạc Liêu.

Với thực trạng như hiện nay, có nên xây dựng vùng nuôi tôm theo mô hình cánh đồng mẫu lớn như sản xuất lúa? Đó là việc doanh nghiệp cùng bắt tay với nông dân thông qua hợp đồng, doanh nghiệp đầu tư vật tư nông nghiệp trong suốt quá trình nuôi và nhận bao tiêu sản phẩm, còn nông dân có trách nhiệm chăm sóc con tôm. Nếu xây dựng được mô hình này, không chỉ giúp doanh nghiệp xuất khẩu chủ động về nguồn tôm phục vụ cho chế biến, mà còn tự xây dựng được thương hiệu, tạo ra “thẻ thông hành” cho riêng mình để chủ động ứng phó với những rào cản ngày càng khắt khe về truy xuất nguồn gốc xuất xứ từ các nước nhập khẩu. Đồng thời, tạo nên lợi thế cạnh tranh riêng trước sự lấn át của thương lái Trung Quốc sang tranh mua nguồn tôm nguyên liệu, gây bất ổn thị trường. Sự đồng hành này còn giúp nông dân trút được gánh nặng về chi phí đầu tư, ngành quản lý cũng giảm bớt chi phí hỗ trợ trong việc xử lý dịch bệnh từ nuôi trồng nhỏ lẻ, tránh được nạn làm giá gây bất ổn thị trường từ thương lái bên ngoài...

SONG HỶ

Tin cùng chuyên mục