
Ẩm thực trong điện ảnh không phải là đề tài lạ. Sideways (2004, dựa theo tiểu thuyết cùng tên của Rex Pickett) từng giành rất nhiều giải (Oscar kịch bản chuyển thể; đề cử Oscar phim hay nhất; Quả cầu vàng hạng mục phim hài; phim xuất sắc nhất Hiệp hội phê bình điện ảnh New York...). Năm nay, Hollywood tiếp tục tung ra nhiều phim ẩm thực.

Cảnh trong phim Sideways.
Ngày 10-11-2006, hãng 20th Century Fox tung ra A Good Year nói về một nhà đầu tư ngân hàng (diễn viên Russell Crowe) thừa kế một vườn nho tại Provence và chuyên tâm nghiên cứu chế biến rượu.
Trong khi đó, hãng Warner Bros vừa hoàn thành bản dựng lại bộ phim Đức Mostly Martha tại New York với cô đào Catherine Zeta-Jones trong vai một bếp trưởng. Ngoài ra còn có The Food of Love (dựa theo tiểu thuyết của Anthony Capella) với bối cảnh tương tự siêu phẩm Pháp Cyrano de Bergerac trong đó cũng có nhiều chi tiết về nghệ thuật ăn uống.
The Food of Love dự kiến bấm máy vào tháng 9-2006 với tài năng sở trường của đạo diễn Peter Chelsom trong dựng phim: lột tả chất lãng mạn và tôn vinh các món ăn Ý. Còn nữa, đạo diễn lừng lẫy Nora Ephron (Sleepless in Seattle; You’ve Got Mail…) – người nổi tiếng sành ăn – cũng sẽ viết kịch bản và đạo diễn một tác phẩm cho Columbia Pictures (dựa theo quyển Julie & Julia: 365 Days, 524 Recipes, 1 Tiny Apartment Kitchen của Julie Powell).
Đợt phim mùa thu năm nay, Fast Food Nation cũng ra mắt khán giả Mỹ sau khi trình chiếu tại LHP Cannes 2006 với dàn diễn viên gồm nhiều gương mặt quen thuộc như Ethan Hawke, Luis Guzman, Patricia Arquette, Bruce Willis, Avril Lavigne... (phim được dựng từ quyển Fast Food Nation: The Dark Side of the All-American Meal của Eric Schlosser, nói về mặt trái văn hóa thức ăn nhanh Mỹ).
Một trong những khuynh hướng khiến bùng nổ đợt phim ẩm thực là xu hướng đi ăn tiệm của dân Mỹ. Xin mở ngoặc, dân Mỹ xài 110 tỷ USD cho thức ăn nhanh năm 2000 (so với 6 tỷ USD năm 1970).
Hiệp hội Nhà hàng quốc gia Hoa Kỳ cho biết các tiệm ăn nhanh tại Mỹ có thể đạt doanh thu 142 tỷ USD năm 2006 trong 173 tỷ USD doanh số nhà hàng nói chung. Ăn uống đã trở thành một trong những quan tâm hàng đầu đối với người Mỹ.
Kênh truyền hình cáp Food Network có 65 triệu lượt người xem mỗi tháng và thị trường báo chí Mỹ có vô vàn tạp chí chuyên đề ẩm thực. “Thức ăn đã trở thành thứ đem lại sự thoải mái, an toàn và thư giãn đối với người Mỹ” – theo Lisa Shotland thuộc Creative Artists Agency; và bếp trưởng được tôn vinh “chẳng khác ngôi sao nhạc rock” – bổ sung của Denise Di Novi, người sản xuất bộ phim The Food of Love.
Hơn nữa, ẩm thực là một nghệ thuật – một nghệ thuật tinh tế kết hợp của hội họa, kiến trúc và đậm tính văn hóa. Trong thực tế, màn bạc Mỹ từng có không ít phim đề tài ẩm thực.
Năm 1994, Ẩm thực nam nữ (Yin shi nan nu) của Lý An từng gây tiếng vang (năm 2001, một phiên bản tương tự từng được dựng với tựa đề Tortilla Soup, nói về văn hóa ẩm thực trong cộng đồng Hispanic tại Mỹ).
Trong The Food of Love cũng như Big Night hoặc Mostly Martha, nấu ăn được miêu tả là khái niệm đơn giản nhất giúp đem đến sự gần gũi. Hơn nữa, phim về ẩm thực nhất thiết phải cho thấy nghệ thuật nấu ăn. Thành công từ bộ phim truyền hình nhiều tập của Hàn Quốc, Dae Jang-gum, là một ví dụ. Spanglish (với Adam Sandler trong vai anh đầu bếp) đã thất bại thảm hại một phần bởi khán giả thấy các cảnh nấu nướng đều vô hồn không chút hấp dẫn và chẳng thấy “nghệ thuật” đâu cả.
Và Last Holiday gần đây (trình chiếu tháng 1-2006) với Queen Latifah trong vai một bếp trưởng cũng chỉ đạt doanh thu khiêm tốn 38 triệu USD dù Latifah được huấn luyện vài kỹ năng nấu ăn từ các chuyên gia thuộc Food Network…
Đôi khi, diễn đạt một điều mà ai cũng trực nghiệm lại chẳng dễ dàng, đơn giản vì rất khó có thể “xí gạt” một điều mà bất kỳ ai – giàu cũng như nghèo – cũng phải làm ít nhất hai lần mỗi ngày trong suốt cuộc đời và tất nhiên người ta phải hiểu điều bình thường đó, cũng như cảm nhận yếu tố tinh tế văn hóa của nó rõ ràng như thế nào…
Đoan thư