Áp dụng ISO 14000 để nâng thế cạnh tranh

ISO 14000 là tiêu chuẩn về quản lý môi trường đã và đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Ra sân chơi WTO, các doanh nghiệp Việt Nam không thể không biết đến bộ tiêu chuẩn này. Ông Ngô Văn Nhơn, Tổng thư ký Hội Chất lượng TPHCM, đã trao đổi với phóng viên Báo Sài Gòn Giải phóng về vấn đề này.
Áp dụng ISO 14000 để nâng thế cạnh tranh

ISO 14000 là tiêu chuẩn về quản lý môi trường đã và đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Ra sân chơi WTO, các doanh nghiệp Việt Nam không thể không biết đến bộ tiêu chuẩn này. Ông Ngô Văn Nhơn, Tổng thư ký Hội Chất lượng TPHCM, đã trao đổi với phóng viên Báo Sài Gòn Giải phóng về vấn đề này.

° Phóng viên: Thưa ông, nội dung chủ yếu của ISO 14000 là gì?

° Ông NGÔ VĂN NHƠN: ISO 14000 là bộ tiêu chuẩn quản lý môi trường với hơn 20 tiêu chuẩn. Trong đó ISO 14001 là tiêu chuẩn về hệ thống quản lý môi trường, tập trung vào kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu các tác hại ảnh hưởng xấu đến môi trường trong quá trình sản xuất, hoạt động. Từ năm 1996 đến 15-11-2004 thế giới áp dụng phiên bản  mang số hiệu ISO 14001:1996.

Đến ngày 15-11-2004, tổ chức ISO tế giới ban hành phiên bản thứ hai mang số hiệu ISO 14001:2004 thay thế cho phiên bản ISO 14001:1996.

Áp dụng ISO 14000 để nâng thế cạnh tranh ảnh 1
Công ty liên doanh Coats Phong Phú đã đạt ISO 14.000 về môi trường. Trong ảnh: Công nhân sử dụng máy nhuộm chỉ xuất khẩu.
Ảnh: ĐỨC THÀNH

Phiên bản mới này không có sự thay đổi lớn về nội dung mà chủ yếu là làm rõ hơn các yêu cầu và tăng cường tính tương thích với tiêu chuẩn ISO 9001:2000 (tiêu chuẩn về quản lý).

Theo hướng dẫn số GD4:2004 ban hành ngày 20-12-2004 của Diễn đàn công nhận quốc tế (IAF) thì quá trình chuyển đổi từ phiên bản cũ sang phiên bản mới sẽ kéo dài 18 tháng kể từ ngày ban hành tiêu chuẩn mới.

Như vậy, kể từ ngày 15-5-2005 các tổ chức chứng nhận sẽ dùng tiêu chuẩn ISO 14001:2004 làm chuẩn chứng nhận hệ thống quản lý môi trường; mọi giấy chứng nhận theo phiên bản cũ đều không còn giá trị trên phạm vi toàn cầu.

° Qua 10 năm thế giới áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường (ISO 14001:1996) thì ở Việt Nam, các doanh nghiệp đã “để mắt” đến tiêu chuẩn này chưa?

° Theo số liệu của Tổ chức ISO thế giới, tính đến cuối năm 2005 đã có 111.162 chứng chỉ ISO 14001 được cấp ở 138 quốc gia. Còn ở Việt Nam, đã có khoảng 100 tổ chức, doanh nghiệp áp dụng và được cấp chứng chỉ áp dụng bộ tiêu chuẩn này, nhưng 2/3 trong số đó là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng thành công hệ thống này là Dệt Phong Phú, Dệt Việt Thắng, Giày Thụy Khuê, INAX Giảng Võ... Đặc biệt, Tổng Công ty Du lịch Sài  Gòn - đơn vị vừa trúng thầu cung cấp dịch vụ phục vụ APEC 2006 đã có một loạt khách sạn được cấp chứng chỉ ISO 14000 như: Rex, Continental, Grand, Quê Hương 4...

- Quả là số doanh nghiệp Việt Nam thực hiện ISO 14000 so với mặt bằng chung của thế giới là quá thấp. Theo ông, tại sao?

° So với mặt bằng chung của thế giới thì số doanh nghiệp Việt Nam đăng ký và được cấp chứng chỉ là rất thấp, tỷ lệ xấp xỉ 1/1000 (1.000 doanh nghiệp mới có 1 doanh nghiệp áp dụng). Có thể giải thích ở một số nguyên nhân sau:

° Các tổ chức, doanh nghiệp trong nước chưa thật sự quan tâm và nhận thức được tầm quan trọng của hệ tiêu chuẩn quản lý môi trường nên còn bàng quan với nó.

° Để áp dụng thành công tiêu chuẩn ISO 14000, các doanh nghiệp cần phải đầu tư cả về tiền bạc lẫn thời gian. Thời gian tối thiểu để tiến hành áp dụng các tiêu chuẩn bắt buộc của ISO 14000 là 8 tháng. Và chi phí để áp dụng tiêu chuẩn ISO 14000 lên đến hàng trăm triệu đồng, tùy theo quy mô sản xuất, loại hình sản xuất, số lượng công nhân của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là nhỏ và vừa nên ít doanh nghiệp dám đầu tư hàng trăm triệu đồng để thực hiện tiêu chuẩn ISO 14000. Điều này lý giải tại sao 2/3 doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO 14000 tại Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

- Nhà nước đã có một số văn bản, chỉ thị hướng dẫn và khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng ISO 14000 nhưng thiếu giải pháp đôn đốc mạnh mẽ. Nhiều doanh nghiệp vẫn có tâm lý coi vấn đề môi trường là nhiệm vụ của Bộ Tài nguyên - Môi trường nên chưa chủ động bắt tay vào thực hiện ISO 14000.

° Theo ông, làm thế nào để phổ biến tiêu chuẩn ISO 14000 trong doanh nghiệp Việt Nam?

° Vấn đề này tùy thuộc vào nhận thức của mỗi doanh nghiệp về tiêu chuẩn ISO 14000. Doanh nghiệp phải thực sự thấy cần có tiêu chuẩn ISO 14000 trong quá trình hội nhập - nó sẽ như tấm thông hành xanh vào thị trường thế giới - từ đó quyết tâm làm và làm nghiêm túc. Các doanh nghiệp nên xác định bỏ ra hàng trăm triệu đồng áp dụng tiêu chuẩn ISO 14000 là kinh phí đầu tư chứ không phải kinh phí mất đi.

Các doanh nghiệp có thể mạnh dạn mời tư vấn nước ngoài để hướng dẫn thực hiện hệ tiêu chuẩn ISO 14000. Bên cạnh đó, nhà nước cũng nên có chính sách khuyến khích, ưu đãi doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn IS0 14000. Tôi cũng muốn cảnh báo rằng, hiện nay có một số đơn vị tư vấn (trung gian giữa doanh nghiệp và tổ chức chứng nhận) tự quảng cáo có thể giúp doanh nghiệp áp dụng hệ thống tiêu chuẩn ISO 14000 trong vòng 3- 4 tháng, là vô lý, làm ẩu.

Cũng có những tổ chức tự xưng vừa có chức năng chứng nhận vừa có thể làm tư vấn cho doanh nghiệp. Điều này, chẳng khác nào vừa đá bóng vừa thổi còi, không nên thuê các đơn vị này làm tư vấn.

°  Xin cảm ơn ông.

Thứ trưởng thường trực Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên:
Đã có kế hoạch hành động sau khi Việt Nam gia nhập WTO

Bộ Tài nguyên và Môi trường  (TN-MT) đang xây dựng Kế hoạch hành động cụ thể về bảo vệ môi trường (BVMT) sau khi VN gia nhập WTO. Trong đó đáng lưu ý là xu hướng xã hội hóa công tác BVMT nhằm giảm gánh nặng cho ngân sách và tăng hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ môi trường. Tới đây, phạm vi hoạt động trong lĩnh vực BVMT sẽ được mở rộng cho các DN tư nhân, cổ phần, HTX môi trường… DN nước ngoài cũng được khuyến khích đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng xử lý môi trường trong một số phân ngành đã cam kết.
Ngân sách dành cho sự nghiệp BVMT trong năm 2007 đã được Bộ TN-MT thống nhất với Bộ Tài chính là khoảng 3.500 tỷ đồng. Trong đó công tác BVMT của các địa phương được bố trí 3.000 tỷ đồng. Việc sử dụng nguồn kinh phí như thế nào cũng đã được quy định rõ tại khoản 2, Điều 111 của Luật BVMT. Một nguồn ngân sách nữa là từ Quỹ Bảo vệ môi trường. Hiện Quỹ mới có 200 tỷ đồng, nhưng khi thực hiện tốt việc thu phí nước thải thì nguồn vốn này cũng sẽ tăng. Nguồn lực từ hợp tác quốc tế dự kiến cũng sẽ rất đáng kể. Nhiều nhà tài trợ cho biết họ sẵn sàng dành 15 – 20% tổng vốn ODA cho công tác BVMT. Ngoài ra, các quy định về thuế môi trường, phí BVMT, ký quỹ BVMT... sẽ tiếp tục được xây dựng, hoàn thiện trong thời gian tới và đó là những điều kiện quan trọng giúp các doanh nghiệp trong lĩnh vực này có cơ sở để hoạch định và phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình một cách bền vững. Việt Nam gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà cung cấp dịch vụ môi trường trong nước và nước ngoài nên chất lượng các dịch vụ này có thể được nâng cao.  Ngành dịch vụ môi trường ở đây bao gồm các dịch vụ xử lý chất thải, làm sạch khí thải có hại, giảm thiểu tiếng ồn, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên… 

THANH TÂM

Tin cùng chuyên mục