
Đổi mới công nghệ sản xuất là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp nhằm tiết giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm để có giá thành sản phẩm thực sự cạnh tranh, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới – WTO. Đây cũng chính là con đường phát triển bền vững của doanh nghiệp. Thế nhưng, với những bước đi chậm chạp trong quá trình đổi mới công nghệ như hiện nay, các doanh nghiệp đang tự trói chân mình.
Thách thức nhiều hơn cơ hội

Dây chuyền sản xuất hiện đại giúp tiết kiệm điện. Ảnh: ĐỨC TRÍ
Đó là thực tế đang diễn ra đối với các doanh nghiệp nước ta trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của WTO. Số liệu thống kê năm 2004 cho thấy các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là dầu thô 22%, hàng dệt may 17%, hải sản 9%, giày dép 10%. Rõ ràng, các mặt hàng này chỉ dựa trên lợi thế tĩnh là tài nguyên thiên nhiên và lao động.
Và nếu chỉ tập trung vào các ngành công nghiệp khai thác lợi thế tĩnh thì những lợi thế cạnh tranh này sẽ nhanh chóng bị bào mòn, đặc biệt là bị cạnh tranh gay gắt bởi các nước khác. Ưu thế về nguồn lực nhân công rẻ và nguyên liệu dồi dào của các nước đang phát triển đang bị mất dần trước sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghệ tiên tiến từ các nước công nghiệp phát triển.
Các chuyên gia kinh tế đã phân tích kinh nghiệm chiến lược phát triển kinh tế tại một số nước và lãnh thổ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Đài Loan (Trung Quốc), châu Âu… cho thấy, các nước này đều có trình độ công nghệ sản xuất cao. Để làm được điều này, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện điều chỉnh rất căn bản cơ cấu công nghiệp. Trong đó, ưu tiên phát triển những ngành có hàm lượng trí tuệ cao, hàm lượng nguyên nhiên liệu và lao động thấp như sản xuất máy tính điện tử, máy bay, robot công nghiệp, mạch tổ hợp, thiết bị công nghiệp đồng bộ, tự động hóa; đẩy mạnh nhập khẩu các kỹ thuật tiên tiến trong lĩnh mà Nhật Bản còn yếu kém...
Còn Hàn Quốc được nổi danh là nước không chấp nhận kỹ thuật lạc hậu và nền công nghiệp sử dụng nhiều nhân công. Để làm được điều này, Chính phủ Hàn Quốc đã sử dụng 2 biện pháp là nhập khẩu kỹ thuật từ nước ngoài và mở rộng nghiên cứu để tự sản xuất công nghệ hiện đại. Nhờ đó, chỉ trong vòng 20 năm, các sản phẩm công nghiệp nặng của Hàn Quốc đã có hàm lượng khoa học và kỹ thuật cao để xuất khẩu; kỹ thuật tự động hóa đã xâm nhập vào hầu hết các ngành công nghiệp ưu tiên như công nghiệp hóa chất, công nghiệp đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất thép, hóa dầu…
Điều đáng nói là trình độ công nghệ thấp đang làm cho giá thành sản phẩm trong nước của Việt Nam cao hơn giá thành sản phẩm nước ngoài nhập khẩu vào từ 20% đến 40%. Điều này không chỉ làm cho doanh nghiệp không có sân chơi trên thương trường quốc tế, mà mất luôn sân chơi trong nhà.
Rào cản xanh
Không dừng lại đó, công nghệ lạc hậu còn đồng nghĩa với việc tiêu hao nhiều năng lượng và gia tăng ô nhiễm môi trường. Đây chính là rào cản hạn chế hàng hóa doanh nghiệp nước ta hội nhập vào thị trường thế giới. Trên thực tế, bất kỳ quốc gia nào cũng muốn tham gia hội nhập nhưng vẫn muốn bảo hộ được các hoạt động sản xuất trong nước. Và để giải quyết song song hai lợi ích này, nhiều nước đã sử dụng đến “rào cản xanh”. Rào cản này là một hệ thống quy định những tiêu chuẩn về môi trường, trình độ công nghệ sản xuất, xử lý chất thải, giải pháp tận thu, sử dụng, tái chế chất thải, giảm thiểu phát thải, tổ chức quản lý…
Các nước áp dụng triệt để loại rào cản này là khu vực châu Âu, châu Mỹ, số ít ở châu Á... trong khi khu vực này là những thị trường có tiềm năng lớn. “Rào cản xanh” có thể ứng dụng linh hoạt dưới nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể như sản phẩm muốn nhập khẩu phải đáp ứng các tiêu chuẩn mức độ chất thải ô nhiễm, khả năng tiết kiệm năng lượng, sử dụng nguyên vật liệu sản xuất có ảnh hưởng đến cân bằng sinh thái; các loại bao bì có tái sử dụng được hay không.
Nhiều nước khác sử dụng “rào cản xanh” như một công cụ để đánh thuế lên sản phẩm nhập khẩu. Tùy theo mức độ gây ô nhiễm của sản phẩm mà doanh nghiệp phải đóng một khoản tiền nhất định. Trường hợp đánh thuế vào khí thải của các ô tô khi nhập khẩu vào thị trường châu Âu là một ví dụ. Điều này làm suy giảm đáng kể khả năng cạnh tranh về giá của doanh nghiệp. Về lâu dài, khi yếu tố “rào cản xanh” được áp dụng triệt để và rộng khắp trên thế giới, cộng với nhận thức người tiêu dùng được nâng cao theo hướng ngày càng quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường thì những doanh nghiệp nào không đáp ứng được yêu cầu “xanh” chắc chắn sẽ bị loại ra khỏi thị trường.
Thông tin liên quan |
Tại hội thảo về rào cản kỹ thuật khi Việt Nam gia nhập WTO, đại diện Vụ Khoa học công nghệ thuộc Bộ Công thương nhấn mạnh, những sản phẩm thiết bị điện, gỗ, sản phẩm cao su, phân bón, thực phẩm, dệt may, thép, hóa chất, thủy sản… chịu nhiều tác động nhất của rào cản trên. Cụ thể như đối với ngành dệt may, cần phải đảm bảo yêu cầu về điều kiện vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng nhất là trẻ sơ sinh (không sử dụng loại thuốc nhuộm có trong danh mục cấm); tủ lạnh không được có khí CFC; sản phẩm gỗ phải có nguồn gốc rõ ràng, không xuất xứ từ rừng bảo tồn hoặc rừng đặc dụng…
Nếu hàng hóa của các doanh nghiệp không đáp ứng một trong các yêu cầu trên thì sẽ bị trả về. Trong khi đó, đây lại là những ngành có thế mạnh xuất khẩu của nước ta. Đại diện Vụ Xuất nhập khẩu thuộc Bộ Công thương khẳng định, chủ động cải tiến công nghệ, bảo vệ môi trường là bước đệm tốt nhất cho các doanh nghiệp trong nước để xóa bỏ “rào cản xanh”. Ngay từ bây giờ các doanh nghiệp triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng các yêu cầu bảo vệ sức khỏe và môi trường cũng đã là chậm để có thể hạn chế ảnh hưởng từ “rào cản xanh” và đón đầu những cơ hội kinh tế tại sân chơi mới. Tuy nhiên, muộn vẫn còn hơn không.
Minh Mẫn