Kỷ niệm 240 năm năm sinh Nguyễn Du (1765-2005)

Bài ca người gảy đàn ở thành Thăng Long

Bài ca người gảy đàn ở thành Thăng Long
Bài ca người gảy đàn ở thành Thăng Long ảnh 1

Thường khi nói đến Nguyễn Du, người ta chỉ nói đến Truyện Kiều. Nhưng 250 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du còn để lại, cũng là một đỉnh cao, một thái sơn của chủ nghĩa nhân văn thời đại ấy, tương ứng với Truyện Kiều.

Trong “Tuần văn hóa Đại thi hào Nguyễn Du”, chúng tôi xin giới thiệu bản dịch “Bài ca người gảy đàn đất Long thành” của nhà thơ Tố Hữu. Đây là một trong những bài thơ dịch cuối cùng của Tố Hữu, rất công phu và sáng tạo.

Tiểu dẫn:

Người gảy đàn ấy không rõ họ tên là gì, chỉ nghe thuở nhỏ nàng đã theo học đàn Nguyễn trong bộ nữ nhạc cung vua Lê. Tây Sơn dấy binh, đội nhạc cũ chết chóc, tản mác. Nàng lưu lạc nơi đầu chợ, ôm đàn hát rong. Những bài nàng đàn đều là những khúc gảy hầu nhà vua, người ngoài không ai được nghe, cho nên nàng được khen là “tuyệt kỹ” của một thời.

Tôi, hồi trẻ đến kinh đô thăm anh tôi, đêm trọ ở quán bên hồ Giám. Cạnh đấy, các quan Tây Sơn tụ hội bọn con hát, trong đó con hát nổi tiếng không dưới vài chục người. Nàng thạo đàn Nguyễn, hát cũng hay, lại khéo pha trò. Người xem đều mê mẩn, nhiều lần thưởng cho nàng những chén rượu lớn, nàng tức thì uống cạn, tiền lụa thưởng nhiều vô số kể, chất đầy mặt đất.

Tôi lúc ấy nấp trong bóng tối, không trông rõ lắm. Sau gặp nàng ở nhà anh tôi. Nàng không đẹp lắm, người thấp, má phính, trán dô, mặt gãy, người đẫy đà, khéo trang điểm, mày nhạt phấn đậm, áo màu hồng, quần lụa đen biếc, phong nhã tươi tắn. Nàng hay uống rượu, thích hài hước, mắt long lanh, chẳng hề để ý đến một ai. Ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu nàng đều say, nôn mửa cả ra, nằm dài trên đất, bạn bè cũng không để tâm chê trách. Sau đó vài năm tôi dời vào Nam, và từ đó không trở lại Thăng Long nữa.

Mùa xuân năm nay, tôi phụng mệnh sang sứ phương Bắc, trên đường qua Thăng Long, các quan có đặt tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên phủ nên cho gọi hết nữ nhạc trong thành, con hát trẻ đến mấy chục người, tôi đều không biết mặt biết tên. Họ thay nhau ca múa. Rồi nghe vút lên một khúc đàn Cầm trong trẻo, nghe khác hẳn các khúc nhạc đương thời. Tôi lấy làm lạ nhìn người đàn, thì thấy người gầy võ, thần sắc khô khan, mặt đen, xấu như quỉ, quần áo toàn bằng vải thô, bạc phếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi lặng lẽ ở cuối chiếu, không nói không cười, hình dáng khó coi quá.

Tôi không biết là ai, duy nghe tiếng đàn thì dường như đã từng quen biết nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi đến người chơi đàn thì ra chính người gảy đàn ngày xưa ấy. Than ôi! Người ấy sao đến nỗi này! Tôi bồi hồi ngẩng lên cúi xuống, khôn xiết cảm thương cho sự đổi thay xưa và nay. Đời người trăm năm, vinh nhục buồn vui khó có thể nào lường được. Sau khi từ biệt, suốt trên đường đi tôi cảm xúc vô hạn, nên làm bài ca để gởi mối cảm hứng.

Có người đẹp ở Long Thành,
Họ tên không rõ nổi danh nguyệt cầm.
Cô Cầm tên gọi tri âm,
Khúc đàn Cung phụng thâm trầm triều xưa.
Ngón tay nàng vuốt tiếng tơ,
Nhạc hay những tưởng trời đưa xuống trần.
Nhớ thời trai, đã một lần,
Tiệc vui hồ Giám, giai nhân bên mình.
Tuổi chừng hai mốt xuân xanh,
Áo hồng mờ trước mặt xinh hoa đào.
Hơi men đỏ má, yêu sao!
Năm cung réo rắt, thấp cao đổi dòng.
Tiếng khoan gió thoảng rừng thông,
Trong như tiếng hạc từng không đêm mờ.
Mạnh như sét đánh bia xưa,
Đau như Trang Tích ngâm thơ Việt buồn.
Người nghe say đắm tâm hồn,
Đẹp sao tiếng nhạc lầu son Trung hòa.
Tây Sơn quan khách tiệc hoa,
Ngả nghiêng vui thú sa đà suốt đêm.
Đua nhau tả hữu đổi bên,
Xem như bùn đất, vung tiền thưởng ca.
Vương hầu cũng kém hào hoa,
Ngũ Lăng niên thiếu vào ra bao lần.
Tưởng ba mươi sáu cung xuân,
Trường An vật báu cũng ngần ấy thôi!
Tiệc xưa, nhớ lại một thời,
Hai mươi năm đã hết đời Tây Sơn.
Ta vào Nam, thuở vàng son,
Long thành gang tấc, đâu còn trông ra?
Quan Tuyên phủ đã vì ta,
Mua vui bày tiệc múa ca rộn ràng.
Đào tiên trẻ đẹp bao nàng,
Riêng người cuối chiếu võ vàng một cô.
Hình hài, thần sắc héo khô,
Đôi mày tàn tạ, vải thô nát nhàu.
Hoa râm tóc đã ngả màu,
Long thành ai nhớ ai đâu thuở nào.
Tài danh bậc nhất cô đào,
Canh khuya bỗng vút lên cao tiếng đàn.
Khúc xưa, nghe những lệ tràn,
Lòng đau chợt nhớ gặp nàng như mơ.
Hai mươi năm trước, ai ngờ,
Tiệc vui hồ Giám, bây giờ thấy nhau?
Biết bao chìm nổi biển dâu,
Đổi dời thành quách, khác mau việc đời.
Tây Sơn cơ nghiệp tan rồi,
Chỉ còn sót lại một người múa ca.
Trăm năm chớp mắt ngày qua,
Đau lòng việc cũ, xót xa lệ sầu.
Nam ra, ta đã bạc đầu,
Trách gì người đẹp sắc màu tàn phai.
Nhớ xưa, mở mắt nhìn ai,
Thương thay giáp mặt, cả hai ngỡ ngàng.

TỐ HỮU (dịch)

TS MAI QUỐC LIÊN giới thiệu

Tin cùng chuyên mục