
Xe đang leo lưng chừng đèo, bỗng dừng lại. Phụ lái hô to: “Mời quý vị nghỉ ngơi, xả hơi, ngắm cảnh!”. Câu chuyện của dì cháu chúng tôi cũng vừa tới điểm nóng. “… Hình của hai người được cột lại với nhau bằng miếng bùa, để dưới chỗ ngủ…”. Dì thì thầm, mắt bừng lên ánh lửa đam mê, long lanh hạnh phúc và niềm tin…
Dì sôi nổi tiếp tục câu chuyện: “Hồi nọ, ông Y mèo mỡ tình tang, bà Y kiếm đủ cách không ăn thua. May, có người chỉ tới bà thầy này. Vậy là ổng quay về!”.
Dì cháu tôi cùng vào Sài Gòn làm ăn.

Minh họa: A. Dũng
Dì lớn hơn tôi sáu tuổi. Hàng ngày, chúng tôi sát cánh nhau khắp các ngả đường với xâu nem trong tay, bọc bánh tráng trên vai. Khuya về, chúng tôi chung chiếc chiếu trong căn phòng trọ nhỏ xíu, ẩm mốc hôi hám. Trong lúc dì làm mặt nạ dưa leo, tôi chúi mũi vô tờ báo hay cuốn sách cũ mèm nhàu nát nhặt được đâu đó hoặc thuê, mượn. Dì thường càm ràm rằng tôi sống trên gió trên mây, con gái mà không lo bề nhan sắc… Lại cứ đọc sách cho già khú người ra!
Dì hay nhìn tôi, lạ lùng, như thể nhìn người từ hành tinh nào lạc vào trái đất: “Tao không hiểu nổi tại sao trong con mắt của mày cái gì cũng đẹp. Ví dụ buổi sáng tao chỉ thấy mát mẻ, thì mày xuýt xoa, ban mai trong veo như ngọc… Trưa, nắng nóng muốn cháy da, mày lảm nhảm là nắng vàng như mật ong… Chiều, mưa, ướt nhẹp, khổ quá chừng khổ thì mày như con khùng, ngâm nga mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ… Cũng may, mày còn được một chút thực tế, là kiếm được đồng nào gửi liền về nhà…”.
Tôi chỉ cười và im lặng. Dì đâu biết, tôi rút ra được một điều hết sức quan trọng trong cuốn Danh nhân thế giới: nhiều người đã thực hiện được ước mơ của mình, dẫu cuộc đời đầy bất hạnh, nghịch cảnh. Như danh họa Leonardo da Vinci, một số phận bi thảm của đứa con ngoài giá thú. Hoặc mới đây nhất, bà Doris Lessing, đoạt giải Nobel văn chương năm 2007, đã phải rời trường khi mới mười ba tuổi… Vậy thì ai cấm con bé bán nem ấp ủ ước vọng cháy bỏng cho riêng mình! Dì đâu biết, chính nhờ cái thế giới “trên mây trên gió” của tôi, mà tôi vẫn thấy mình hạnh phúc trên từng bước chân dãi dầu nắng mưa kiếm sống. Lần nọ đang ngủ, tôi giật mình vì tiếng khóc thút thít trong mơ của dì. Tôi đập mạnh cho dì tỉnh lại. Dì thổn thức, chồng dì bỏ dì, chạy theo con nhỏ có của, trẻ đẹp, dù dì kêu khóc van xin muốn gãy lưỡi.
Giấc mơ đổi đời của dì sao ngày càng xa lơ xa lắc? Dì nóng ruột, bồn chồn: “Há miệng chờ sung rụng khéo lại ống chề! Thôi thì nồi nào úp vung nấy!”.
Nên dì cất công tìm kiếm cái vung cho mình.
Mỗi chiều, khi thành phố lên đèn, ảnh (dì kêu cái vung của dì như vậy) đạp xe tới quán nhậu X. Chiếc xe đạp cồng kềnh thùng kẹo kéo và máy hát. Đứng trước quán, ảnh cầm mi-cờ-rô, coi điệu nghệ dễ sợ! Ảnh toàn hát những bài tình ca bô-lê-rô sầu mộng. Ảnh luyến láy rất nhuyễn, giọng mùi mẫn lắm, nghe nhức cả lòng. Xong, ảnh thoăn thoắt đem kẹo kéo tới từng bàn. Dì kiếm chỗ gần đó, mua kẹo của ảnh, miệng nhóp nhép. Nét mặt dì bỗng sinh động hẳn lên, mắt sáng rực niềm si mê cuồng nhiệt. Mỗi lần ảnh tới gần dì, trông dì bối rối, vụng về một cách đáng yêu. Có lúc dì quên cả việc kiếm sống, người ta trả tiền, dì lơ đãng cầm đại, không buồn đếm. Ôi! Dường như ảnh đã hớp hồn dì mất rồi. Những lúc đó, tôi lẻn kiếm chỗ thiệt xa ngồi, hoặc nhìn nơi khác để khỏi mắc cỡ, dẫu tự sâu thẳm tâm hồn, tôi nghe rưng rưng xúc động…
Ngặt nỗi, ảnh cứ lo hát và lo bán kẹo nên chưa bắt gặp ánh mắt đắm đuối yêu đương của dì. Ảnh cũng chưa hiểu tại sao dì mua kẹo nhiều đến như vậy? Tại sao dì ăn kẹo kéo miết mà hổng ngán? Ảnh đâu biết, mỗi khi ảnh đạp xe đi bán chỗ khác, dì nhìn theo, buồn đến thẫn thờ, khiến tôi phải mủi lòng.
Cũng có lúc lương tâm tôi thức tỉnh, nhắc nhở tôi rằng, đừng vì ham ăn mà mờ mắt trước mọi sự. Hãy sáng suốt nhận định sự việc và tìm hiểu cái vung của dì mà góp ý với dì. Nhưng rồi nghĩ lại, mình phận cháu, lại nhỏ hơn dì nhiều, lại thường bị dì la là “đồ sống trên mây trên gió”, dễ gì dì chịu nghe!
Vậy là tôi phải xuống xe giữa đường với dì để đi tìm bà thầy. Lòng lo ngay ngáy việc về quê có kịp giao thừa?”.
Tôi lo lắng: “Dì Tư ơi! Rủi… không… được, bả… trả tiền lại cho mình không hở dì?”. Dì nạt: “Miệng ăn mắm ăn muối! Phải tin mới linh! Hiểu chưa?”. Dì triết lý: “Đồng ý tiền quan trọng, nhưng hạnh phúc còn quan trọng hơn, hiểu chưa?”. Tôi thở dài. Ôi, năm trăm ngàn! Đó là những bước chân lếch thếch rã rời trong mưa buồn nắng nhớ… những lời năn nỉ ỉ ôi tủi cực… rao tới rát cái bản họng… khàn đục cả giọng!
Thôi thì… vẫn biết lòng kiên nhẫn có thể không đem lại kết quả… Vẫn biết trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc, có thể vấp váp, lầm lạc nhưng dù sao dì cũng đã làm hết sức mình để sau này không phải hối tiếc.
“Mà… dì ơi, chú ấy ngủ chung chiếu với mấy người khác, lỡ bị lộn…”. Dì cười bí ẩn: “Yên tâm! tao tính kỹ rồi!”. Thì ra sức mạnh của tình yêu, của cuộc sống lứa đôi ghê gớm thiệt! Không biết mai mốt tôi có như vầy không? Tình yêu, mãi mãi là khát vọng muôn thuở của kiếp người, là hạnh phúc và khổ đau, là nước mắt và nụ cười, là chính kịch, bi kịch, hài kịch, mà con người vẫn không ngừng tìm kiếm - và tìm kiếm không mệt mỏi!
Dì nói: “Phải tới nhà bà thầy đúng mười hai giờ khuya mới thiêng”. Và thế là, trong đêm tối, đường đất gồ ghề, lồi lõm, ngoằn ngoèo như mê lộ, hai chiếc xe ôm Dream Tàu liên tục sang số. Ổ số lạo xạo, muốn bể tung. Tim tôi cũng muốn bể tung, cảm giác cái lưng sắp gãy đôi! Hai bên đường, dưới ánh sáng xanh xao mờ ảo của vô số vì sao đang run rẩy trên cao, lác đác mấy căn nhà lá nghèo nàn, rầu rĩ co mình, lẩn khuất trong rừng bạch đàn âm u lạnh lẽo, đầy vẻ ma quái! Tôi vẫn không thôi dự cảm không lành về cuộc tìm kiếm nhọc sức này. Lòng cồn cào nỗi bất an mà đâu dám nói.
Kìa! Một ngôi nhà nhỏ sáng đèn! Tôi thở phào. Khoảng hơn chục người, toàn đàn bà, đứng ngồi lố nhố trước hè.
Đúng mười hai giờ, mọi người vào nhà. Khép nép, kính cẩn. Rất nhiều bàn thờ. Lư đồng sáng choang, nhang đèn nghi ngút. Hình như bà thầy sống một mình. Dì chép miệng, thương hại cho tôi: “Uổng ghê, phải chi mày ưng đứa nào, sẵn đây xin bùa luôn!”. Tôi ngẫm nghĩ, đâu dễ gì để yêu một người? Mà, chắc càng không dễ để gặp được người yêu mình?
Dì cháu tôi ngồi chỗ ngạch cửa. Chờ. Bà thầy trùm kín mặt bằng tấm vải đỏ, gần giống cảnh lên đồng. Tôi ớn lạnh, lấy ve dầu gió hít hít.
Tới lượt dì. Dì run run, thành kính đưa hai tấm hình cho bà thầy: Một tấm của dì và một tấm của ảnh (không dễ để dì có được). Bà thầy vừa lầm rầm khấn vái, vừa cột hai tấm hình bằng mảnh vải đỏ mà bà mới vẽ ngoằn ngoèo gì đó bằng cây bút lông đen. Mọi động tác của bà đều rất nhanh gọn thuần thục, dù tấm vải đỏ vẫn phủ kín mặt.
Rồi bà vén tấm vải lên để đếm tiền.
Trời ơi! Trong thoáng chốc, tôi nhận ra ngay đó là dì Ba của tôi! Chính xác dì Ba! Tôi sẵn sàng cá bất cứ điều gì à nhen! Dì Ba mất tích cách đây bốn năm! Chuyện là, khi phát giác dượng Ba có bồ, dì bỏ nhà ra đi. Còn dượng, hiện vẫn ung dung sống với bà bồ.
Tôi cố kìm lại để không kêu lên: “Dì Ba!”.
Và, vốn giàu óc tưởng tượng, tôi có thể hình dung được ánh mắt chưng hửng, thảng thốt của hai người dì của tôi chạm nhau!
Trương Thị Kim Chi