Vùng miền chuyển mình, sinh kế thay đổi
Từ quốc lộ 1A nhìn ra biển, Trung tâm Điện lực Vĩnh Tân (xã Vĩnh Hảo, tỉnh Lâm Đồng) hiện lên như một “thành phố năng lượng” rực sáng giữa nắng gió Nam Trung bộ với những ống khói khổng lồ vươn lên trời cao, từng làn khói trắng quyện với hơi sương sớm, báo hiệu một ngày làm việc tất bật của hàng trăm kỹ sư, công nhân vận hành nơi đây. Với tổng công suất 4.284MW, sản lượng trung bình khoảng 15 tỷ kWh/năm, trung tâm đóng góp ngân sách địa phương hàng ngàn tỷ đồng và tạo việc làm cho hàng ngàn lao động.
Tỉnh Lâm Đồng, với diện tích tự nhiên lớn nhất cả nước, chiều dài bờ biển trên 192km, khí hậu phía Đông Nam nắng, gió quanh năm, tạo điều kiện lý tưởng để phát triển năng lượng tái tạo.
Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng Hồ Văn Mười khẳng định, năng lượng xanh từ nắng và gió là một trong những nhiệm vụ chiến lược của tỉnh. Từ vùng đất cao nguyên, kết hợp dải ven biển đầy nắng và gió, tỉnh Lâm Đồng đang mở ra một hướng đi táo bạo - phát triển điện gió ngoài khơi.
Theo đánh giá của Viện Năng lượng (Bộ Công thương), Lâm Đồng và vùng biển lân cận có tốc độ gió cao, độ sâu đáy biển thấp, là khu vực có tiềm năng điện gió ngoài khơi tốt nhất Việt Nam. Lâm Đồng đang được tái định vị thành điểm phát triển điện gió ngoài khơi do vị trí tiếp giáp vùng biển có tiềm năng cao.
Những năm vừa qua, nhiều tập đoàn năng lượng lớn trong và ngoài nước đã đến khảo sát, tìm hiểu tiềm năng gió tại vùng biển Lâm Đồng. Trong số đó, Pacifico Energy, nhà đầu tư năng lượng tái tạo hàng đầu Mỹ, đã vận hành thành công dự án điện mặt trời Mũi Né công suất 40MW, mỗi năm tạo ra 68 triệu kWh điện, giúp giảm gần 55.500 tấn CO2. Từ đó, Pacifico Energy xúc tiến dự án điện gió ngoài khơi quy mô lớn tại khu vực biển Lâm Đồng.
Tập đoàn Copenhagen Infrastructure Partners (CIP, Đan Mạch) cũng đang xúc tiến dự án điện gió ngoài khơi La Gàn, với công suất dự kiến 3,5GW, tổng vốn đầu tư 10,5 tỷ USD. Khi hoàn thành, dự án này có thể cung cấp năng lượng cho hơn 7 triệu gia đình mỗi năm.
Ở miền Nam, trước áp lực phụ tải tăng mạnh, điện khí LNG được xác định là nguồn nền cần thiết để cân bằng hệ thống khi tỷ trọng năng lượng tái tạo tăng cao. Theo điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, công suất điện khí dùng khí trong nước cần tăng từ 7GW lên 16GW, còn công suất điện LNG nhập khẩu dự kiến tăng từ 0,8GW lên 22,5GW vào năm 2030.
Đơn cử như tỉnh Cà Mau, với 310km bờ biển và vận tốc gió ổn định 6,5-7m/giây, đã có 16 nhà máy điện gió vận hành (tổng công suất 870MW) và hơn 2.800 hệ thống điện mặt trời mái nhà (295MWp). Tỉnh này còn được bổ sung vào quy hoạch với mục tiêu xuất khẩu 12.000-15.000MW điện tái tạo qua cáp ngầm.
Không chỉ thay đổi ở quy mô vĩ mô, năng lượng xanh còn tác động trực tiếp đến đời sống người dân. Ở nhiều xã ven biển, thanh niên đã chuyển từ nghề truyền thống sang làm việc tại nhà máy, vận hành, bảo trì turbine; một số vùng xuất hiện nghề du lịch năng lượng - tham quan cánh đồng gió, nhà máy mặt trời - đem lại nguồn thu bổ sung cho cộng đồng.
Ông BÙI QUỐC HÙNG - Phó Cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công thương):
Hoàn thiện chính sách cho thị trường điện
Để cụ thể hóa Nghị quyết số 70-NQ/TW, Chính phủ đã giao Bộ Công thương chủ trì xây dựng 2 dự thảo nghị quyết, gồm một nghị quyết của Chính phủ về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 70-NQ/TW và một nghị quyết để Chính phủ trình Quốc hội ban hành, nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển năng lượng, bao gồm điện, dầu khí, than và các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo.
Đến nay, nghị quyết của Chính phủ đã được ban hành. Đối với dự thảo nghị quyết của Quốc hội, Bộ Công thương đã giao Cục Điện lực nghiên cứu, xây dựng. Hai nghị quyết này đều nhằm triển khai các nội dung của Nghị quyết số 70-NQ/TW. Những chính sách mới sẽ giúp tháo gỡ vướng mắc, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các nhà đầu tư vào các dự án điện trọng điểm, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trong giai đoạn tới.
VĂN PHÚC ghi
Nhiều thách thức
Tuy nhiên, đằng sau triển vọng đầy hứa hẹn vẫn là những vướng mắc pháp lý. Việc chưa có quy định rõ ràng về thẩm quyền khảo sát, đo gió, sử dụng diện tích mặt nước khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khi triển khai.
Ông Bùi Văn Thinh, Chủ tịch Hiệp hội Điện gió và điện mặt trời Bình Thuận (tỉnh Lâm Đồng), chia sẻ, tiềm năng cũng như quy hoạch phát triển điện gió ngoài khơi đã rõ ràng. Để thực hiện được, phải khơi thông các vướng mắc hiện nay. Trong đó, vấn đề chồng chéo giữa các vùng kinh tế và an ninh quốc phòng phải được giải quyết. Trước mắt, phải có một số dự án mang tính chất thí điểm, để xem mức độ khai thác ra sao và tính toán việc đấu nối nguồn điện sao cho phù hợp.
Bên cạnh đó là vấn đề vốn và rủi ro. Các dự án điện gió ngoài khơi, điện khí LNG hay nhà máy điện hạt nhân đều đòi hỏi nguồn vốn khổng lồ và thời gian thu hồi dài. Doanh nghiệp có thể huy động vốn nếu môi trường chính sách ổn định; trái lại, biến động cơ chế làm tăng chi phí vốn.
Ông Đặng Quốc Bảo, Phó Tổng giám đốc Trung Nam Group, nhận xét, doanh nghiệp có thể chủ động nguồn lực, nhưng quy hoạch và cơ chế giá là yếu tố quyết định niềm tin. Cùng với đó, cơ chế giá và chính sách chưa đồng bộ. Sau khi kết thúc các chính sách FIT (cơ chế khuyến khích phát triển các nguồn năng lượng tái tạo), nhiều dự án đang phải đàm phán giá mới với EVN. Việc điều chỉnh giá mạnh - có lúc giảm 40%-45%, đã làm đứt gãy phương án tài chính cho không ít dự án, ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn và tiến độ triển khai.
Cuối cùng, lưới truyền tải là nút thắt vật lý. Có dự án hoàn thành nhưng không có đường dây để đấu nối. Theo số liệu vận hành, trong một số thời điểm tháng 5-2025, hệ thống chỉ huy động được một phần nhỏ công suất lắp đặt gió do gió yếu; ngược lại, nhiều thời điểm khác, công suất bị cắt giảm vì thiếu đường dây và trạm biến áp.
Chuyên gia Đào Nhật Đình cảnh báo, nếu không có nguồn điện khí nền và lưới truyền tải mạnh, các mục tiêu lớn về năng lượng tái tạo đến năm 2030 sẽ khó thực hiện. Ngoài ra, điện gió ngoài khơi và xuất khẩu điện còn vướng khung pháp lý liên quan an ninh, chủ quyền và cơ chế đấu nối xuyên biên giới - những vấn đề đòi hỏi sự phối hợp liên ngành.
Theo nhiều chuyên gia, để biến tiềm năng thành hiện thực cần một số giải pháp đồng bộ. Đó là ổn định cơ chế giá và hợp đồng dài hạn. Chính phủ cần ban hành khung giá và cơ chế khuyến khích rõ ràng cho từng loại nguồn (đặc biệt là gió ngoài khơi và LNG), đảm bảo hợp đồng mua bán điện đủ dài và có cơ chế chia sẻ rủi ro, giúp doanh nghiệp huy động vốn.
Bên cạnh đó là đẩy nhanh đầu tư hạ tầng truyền tải - cho phép tư nhân tham gia. Quy hoạch truyền tải phải đi trước phát triển nguồn. Cần khuyến khích nhà đầu tư tư nhân tham gia xây dựng đường dây và trạm biến áp theo cơ chế PPP, sau đó EVN tiếp nhận quản lý vận hành. Cách làm này rút ngắn thời gian giải tỏa công suất và giảm gánh nặng ngân sách nhà nước.
Việt Nam có đầy đủ các điều kiện tự nhiên và nguồn lực để trở thành điểm sáng năng lượng xanh trong khu vực. Tuy nhiên, tiềm năng chỉ trở thành giá trị khi chính sách, quy hoạch và hạ tầng kịp thời tháo gỡ nút thắt. Khi đó, năng lượng xanh không chỉ đảm bảo an ninh năng lượng mà còn trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo việc làm, đóng góp ngân sách và đưa Việt Nam vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Vùng biển từ tỉnh Lâm Đồng đến TPHCM có tốc độ gió trung bình 8-10m/giây ở cao độ 100m, đáy biển bằng phẳng, thuận lợi cho lắp đặt tuabin. Liên danh PTSC - Sembcorp (Singapore) được cấp phép khảo sát vùng biển và hướng đến mục tiêu xuất khẩu 2,3GW điện sang Singapore qua cáp ngầm từ năm 2030.
PTSC cũng đã chế tạo thành công 33 chân đế trụ điện gió cho dự án Greater Changhua 2b&4 của khách hàng Ørsted, khẳng định năng lực sản xuất thiết bị trong nước và bước đầu tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Điện gió ngoài khơi đã tạo cơ hội để Việt Nam tham gia chuỗi giá trị quốc tế.