
Ấn tượng của tôi về Hàn Quốc trước chuyến đi này rất mơ hồ và rời rạc. Đó là một mảnh nhỏ lịch sử với cái tên gọi “lính Đại Hàn” của cuộc chiến tranh đã xa gần 30 năm và những bộ phim tình cảm chiếu trên ti vi nhiều năm gần đây. Trước chuyến đi, nhà văn Hữu Thỉnh trong buổi gặp mặt đoàn nhà văn 14 người chuẩn bị cho chuyến đi giao lưu với các nhà văn Hàn Quốc đã cẩn thận dặn dò: “Cuộc chiến tranh Việt Nam còn là một nỗi đau, một vấn đề rất nhạy cảm với người Hàn Quốc, tốt nhất là các anh chị đừng nhắc tới...”.

Bên cạnh vẻ tráng lệ và hiện đại của những tòa cao ốc và đường cao tốc, Seoul còn những nét đẹp lãng mạn, yên bình...
Sân bay Inchon nằm trên một hòn đảo nhỏ cách thủ đô Seoul 40,2km đón chúng tôi bằng một buổi sáng cuối tháng 6 mát lạnh rất đẹp. Ngày đã bắt đầu nhưng chưa có nắng. Tiếp chúng tôi là ông Bang Hyun Suk, Chủ tịch Nhóm tác giả trẻ muốn tìm hiểu về Việt Nam. Trên đất nước Hàn Quốc có hơn 50 người viết trẻ tập hợp nhau lại trong một nhóm như thế.
Không vội về thẳng Seoul, xe đưa chúng tôi ghé thăm hòn đảo Gwangseong và một ngôi chùa nổi tiếng của Hàn Quốc. Gwangseong là một hòn đảo quan trọng về mặt quân sự của Hàn Quốc, bởi từ đây bằng đường thuyền và đường bộ có thể dễ dàng tiến về Seoul.
Chúng tôi đứng trên những bức tường thành xây bằng đá xanh vững chãi nhìn ra những dòng nước cuồn cuộn chảy và nghe kể chuyện lịch sử. Ông Bang kể rằng đây là nơi bắt đầu cuộc kháng chiến kiên cường của nhân dân Hàn Quốc chống quân Nguyên, quân Nhật từ hàng trăm năm trước. Những chòi canh, tháp canh vươn cao và những lỗ châu mai hướng ra biển hùng vĩ trong làn sương khói mờ ảo. Từ đảo Gwangseong, chúng tôi đi thăm ngôi chùa.
Con đường lên chùa khá dốc hai bên đường có nhiều hàng quán bán đồ ăn và đồ lưu niệm. Nhiều người phụ nữ chạy ra trước cửa quán đứng chắp hai tay cúi đầu chào mời chúng tôi, kiểu cách chào mời cũng thật hiền hậu và ấm áp khiến chúng tôi cũng phải dừng chân để mỉm nụ cười từ chối. Quần thể chùa tuyệt đẹp với những mái cong nhẹ nhàng màu xám đen nổi lên vừa giản dị vừa thâm u vừa bí ẩn trên nền những vòm cây nhiều màu sắc. Nhà văn thì thầm chỉ dẫn cho chúng tôi nơi này cầu phước, nơi kia cầu sức khỏe, còn bức tượng đó sờ vào sẽ sinh được con trai... ông còn kể một truyền thuyết rất lạ kỳ về ngôi chùa có lịch sử hàng trăm năm ấy.
Chuyện về nhà sư xây chùa vì thương tình cứu giúp một cô gái, không ngờ nửa đêm cô trốn mất, ăn cắp toàn bộ số tiền được quyên góp để xây chùa. Cho nên bốn góc chùa nhà sư cho tạc hình bốn cô gái khỏa thân đỡ lấy bốn mái cong, để bắt cô gái kia đời đời phải gánh chịu hình phạt này... Suốt bảy ngày của chuyến đi ấy, chúng tôi luôn có những người bạn đi theo cùng. Họ là những nhà văn trong Nhóm các tác giả trẻ muốn tìm hiểu về Việt Nam, là những nhà báo trẻ, là những bác sĩ hay những người bình thường khác. Nhiều người trong số họ nói lõm bõm được tiếng Việt. Họ học tiếng Việt với một tình cảm chân thành: học để hiểu hơn về Việt Nam.
Hai chữ Việt Nam không hề xa lạ với dân tộc Hàn Quốc. Trong cuộc đời tôi, có lẽ lời xin lỗi mà tôi được nhận lấy đẹp nhất, vĩ đại nhất, cảm động nhất chính là ở trên đất nước Hàn Quốc. Trong nhiều cuộc gặp gỡ, nhiều vị giáo sư già, những nhà thơ, những cựu chiến binh đã chắp tay lại và nói với chúng tôi: “Chúng tôi còn nợ các bạn nhiều lắm. Chúng tôi phải xin lỗi các bạn”, “Cho đến bây giờ, chúng tôi vẫn chưa thể ngẩng đầu lên trước các bạn bởi những tội ác chúng tôi đã gây nên cho các bạn và nhiều dân tộc khác”.
Lời dặn dò của nhà thơ Hữu Thỉnh trước chuyến đi bỗng trở thành không cần thiết khi sự tế nhị của chúng ta được đón tiếp bằng tấm lòng cởi mở chân thành của những người bạn. Tại Ulsan trong một cuộc gặp mặt, chúng tôi bất ngờ được nghe một lời chào bằng tiếng Việt rất sõi, rất chuẩn: “Chào các bạn”. Đó là một phụ nữ Hàn Quốc đã lớn tuổi. Bà Lý Sook Ja nói rằng: “Việt Nam là quê hương thứ hai của tôi”. Tháng 7-1972, cô nhà báo trẻ Lý Sook Ja của một tạp chí văn học đã tới Sài Gòn và sống ở đó cho tới tận ngày 18-4-1975. Những kỷ niệm của bà Lý nhắc lại là một Sài Gòn thân yêu có con đường Hiền Vương và người bạn gái tên Hiền: “Năm 1990, ngay khi chính phủ cho phép đi du lịch Việt Nam, tôi đã trở lại Sài Gòn, nhưng Sài Gòn thay đổi quá nhiều, tôi không tìm ra được người bạn gái ấy nữa”.
Chính từ những câu chuyện ấy, trên mảnh đất xa lạ ấy, tôi bỗng được nhìn thấy một phía khác của những từ ký ức chiến tranh-ký ức trong lòng mỗi cá nhân, con người, trong lòng của một thế hệ, một dân tộc. Nó không thể không tồn tại và thậm chí còn phát triển thành một điều gì đó. Và vì điều ấy mà cách đây nhiều năm ông Bang đã bắt đầu học tiếng Việt. ông Bang kể rằng năm 1980 ông đã đọc cuốn tiểu thuyết Áo trắng của nhà văn Nguyễn Văn Bổng. Đó là năm bùng nổ phong trào đấu tranh vì nền dân chủ của người dân Hàn Quốc, đặc biệt là của những người trẻ tuổi. Áo trắng mặc dù đã bị chính phủ cấm đoán, nhưng vẫn là cuốn sách gối đầu giường của những người đứng lên, những người đã hy sinh trong ngày 18 tháng 5 lịch sử. 12 năm sau, năm 2002 ông viết cuốn sách đầu tiên của mình về Việt Nam Sao mọc ở Hà Nội.
Từ ấy cho đến nay, ông Bang vẫn tiếp tục viết về Việt Nam, đó là thành quả của 20 chuyến đi tới mọi miền đất nước Việt Nam từ Bắc tới Nam, lang thang trên những con đường, trò chuyện với hàng trăm người, ghi chép ở các viện bảo tàng. Năm nay cũng là năm ông vừa nhận được giải thưởng văn học Seoul với cuốn tiểu thuyết Hình thức của sự tồn tại. Đó cũng là một cuốn sách lấy bối cảnh Việt Nam để nói về điều mà ông trăn trở: Vì sao con người tồn tại và sự tồn tại ấy có ý nghĩa gì. ông tự hào nói với chúng tôi: “Có một lứa thanh niên Hàn Quốc đọc sách tôi viết về Việt Nam. Chúng tôi muốn hiểu Việt Nam hôm nay và để hiểu được Việt Nam hôm nay, lại phải hiểu cả Việt Nam hôm qua”.
Tôi đã viết một bài thơ sau chuyến đi này với nhan đề: Trên mảnh đất của Hòa Bình tôi được nghe nói về chiến tranh. Bài thơ xuất phát từ dịp đến thăm Intimcac, địa danh giới tuyến hai miền Nam-Bắc Hàn Quốc. Đứng trên cây cầu mang tên Tự Do, nhìn xuống tấm bản đồ một đất nước Hàn Quốc trọn vẹn và cùng nhiều người dân Hàn Quốc ký tên lên những mảnh vải phấp phới treo trên hàng rào ngăn cách hai miền, tôi càng hiểu vì sao lại có rất nhiều người Hàn Quốc lại muốn tìm hiểu về Việt Nam đến thế.
Một nhà văn đứng trên cây cầu nhìn sang phía bên kia xa vời và xanh rợi nói rưng rưng: “Chúng ta đã có chung một nỗi đau, chỉ có điều các bạn đã trải qua và đã hàn gắn, còn ở đất nước chúng tôi...”. ông Bang trong một lần trò chuyện với chúng tôi cũng đã thốt lên với một sự ngậm ngùi: “Cuộc chiến tranh của chúng tôi không kém phần thảm khốc, đau thương, nhưng thế giới ít biết đến chỉ vì đó là một cuộc nồi da nấu thịt của anh em một nhà...”.
Đó cũng là điều mà ông nhắc lại với chúng tôi khi đoàn nhà văn chúng tôi cùng với các nhà văn Mông Cổ, Palestine, Iraq đến thăm thành phố Kwangju - một thành phố được coi là biểu tượng cho phong trào đấu tranh dân chủ của Hàn Quốc. Nơi đây trong những ngày tháng 8 năm 1980 đã có hơn 300 người hy sinh vì dân chủ. Đứng trên khu nghĩa trang liệt sĩ với lớp lớp những bia mộ trắng mênh mông và hoa tím, chúng tôi, những nhà văn của Hàn Quốc, Việt Nam, Mông Cổ, Iraq, Palestine đã gửi tới thế giới một thông điệp kêu gọi mọi người vì hòa bình sát cánh bên nhau để vượt qua nỗi đau chiến tranh.
Có một điều làm tôi cảm động nhất, tự hào nhất khi được cùng với tất cả mọi người đọc lời kêu gọi ấy chính là suy nghĩ: trong tất cả chúng ta cùng đứng ở đây, chỉ có chúng ta, dân tộc ta đã thực sự vượt qua được chiến tranh, đã chiến thắng và chúng ta đang sát cánh cùng nhau để vượt qua mọi mặc cảm, mọi hận thù xây dựng hòa bình. Phải chăng cũng chính vì những điều như thế mà chúng ta mãi mãi tồn tại trong lòng những người bạn trên khắp thế giới này.
Khánh Chi