Tỷ lệ gia tăng bình quân GDP mang lại bởi việc công nhận hôn nhân cùng giới trong ngắn hạn là từ 0,17% đến 0,44% một năm, theo kết quả nghiên cứu “Đánh giá tác động kinh tế của chính sách về hôn nhân cùng giới tại Việt Nam” của Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE) và Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS). Hội thảo công bố nghiên cứu này được tổ chức tại Hà Nội ngày 22-12.
Theo ông Lương Thế Huy, Viện trưởng ISEE, đây là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam nghiên cứu về vấn đề hôn nhân của người cùng giới nói riêng và vấn đề của người LGBT (tức người đồng tính - song tính - chuyển giới) dưới góc độ tác động kinh tế của chính sách về hôn nhân cùng giới tại Việt Nam.
Theo nhóm nghiên cứu, số LGBT tại Việt Nam chiếm từ 9% đến 11% tổng dân số. Cùng với sự phát triển của xã hội Việt Nam, LGBT ngày càng được nhìn nhận như những thành viên tự nhiên, bình đẳng và đầy đủ của xã hội. Tuy nhiên, LGBT đã và vẫn luôn phải đối mặt với nguy cơ phân biệt đối xử trong tương tác xã hội, giáo dục, việc làm. Việc công nhận những quyền này cho LGBT là một cơ sở quan trọng không chỉ cho quá trình hội nhập xã hội của nhóm người này mà còn cho góp phần vào sự phát triển văn hoá – kinh tế – xã hội nói chung của Việt Nam.
“Việc công nhận hôn nhân đồng giới làm gia tăng quyền cho nhóm người LGBT, từ đó gia tăng phúc lợi và phạm vi ra quyết định của họ”, ông Lương Thế Huy khẳng định.
Cũng theo nghiên cứu này, việc hợp thức hoá hôn nhân cùng giới có thể mang lại cho Việt Nam từ 1,65% đến 4,36% gia tăng trong GDP mỗi năm so với trường hợp không công nhận. Trong ngắn và trung hạn, tỉ lệ gia tăng này dàn trải trong khoảng 10 năm (vì LGBT cần có thời gian để hồi phục những chấn thương tâm lý, xã hội Việt Nam cũng cần có thời gian thay đổi thích ứng). Điều này có nghĩa là tỉ lệ gia tăng bình quân GDP được mang lại bởi việc công nhận hôn nhân cùng giới trong ngắn hạn là từ 0,17% đến 0,44% một năm. Bên cạnh đó, việc công nhận hôn nhân cùng giới cũng mang lại cho các ngành công nghiệp có liên quan đến tổ chức tiệc cưới và xây dựng gia đình gia tăng trong doanh thu từ 5,26% đến 4,36% so với trường hợp không công nhận. Việc công nhận hôn nhân đồng giới cũng giúp Việt Nam tiết kiệm được mỗi năm từ 13 triệu USD đến 71 triệu USD chi phí phát sinh từ những thiệt hại đến từ các rối loạn tâm lý (rối loạn trầm cảm và rối loạn lo âu) do vị thế thiểu số của người LGBT…
Từ đó, nhóm nghiên cứu đề xuất triển khai chương trình thay đổi nhận thức ở cấp toàn quốc, công nhận người LGBT là đối tượng đầy đủ của luật pháp và thiết chế xã hội. Tiếp đến, điều chỉnh luật pháp để công nhận hôn nhân cùng giới với đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật như hôn nhân khác giới; phấn đấu để Việt Nam là quốc gia đầu tiên tại Đông Nam Á và thứ hai tại châu Á công nhận hôn nhân cùng giới. Đặc biệt, nhóm nghiên cứu đề xuất ban hành luật chống phân biệt đối xử trên cơ sở bản dạng giới và xu hướng tính dục trong gia đình, nhà trường, nơi làm việc; giới thiệu nội dung giáo dục về người LGBT vào chương trình học phổ thông dưới hình thức chính khoá hoặc ngoại khoá; tuyên truyền, giáo dục hướng đến toàn bộ xã hội, nhấn mạnh thông điệp rằng người LGBT là những thành viên bình đẳng, đầy đủ của xã hội…