Bà xã nói: “Anh phải đi xin nhập hộ khẩu rồi làm chứng minh nhân dân cho đàng hoàng, ai đời đi đâu bây giờ cũng chỉ cái thẻ nhà văn gọn lỏn, có nơi người ta yêu cầu chứng minh nhân dân thì anh làm sao? Anh bây giờ đàng hoàng rồi, có bệnh hoạn gì nữa đâu mà sợ!”. “Bệnh hoạn” mà vợ tôi nhắc tới ở đây là cả một quãng thời gian dài tôi chìm đắm trong bóng tối ma quái của sự nghiện ngập. Đây chính là thời gian đen tối nhất của cuộc đời tôi trong hành trình của số phận.
Từ Đài Truyền thanh huyện, tôi nhảy một bước thành phóng viên mảng văn hóa xã hội của Báo Hậu Giang vào những năm đầu thập niên 90 thế kỷ trước. Cả nhóm chỉ vài ba phóng viên trong khi địa bàn rộng nên chúng tôi đi suốt. Về báo không bao lâu tôi cưới vợ, người con gái dũng cảm gật đầu chịu đi theo một kẻ nghèo rớt mồng tơi như tôi trong suốt cuộc đời là họa sĩ cùng công tác ở Phòng Văn hóa Thốt Nốt khi tôi mới xuất ngũ. Khi tôi về Báo Hậu Giang, cô ấy cũng nghỉ làm việc ở Thốt Nốt mà xin vào phòng hội họa của Công ty Meko chuyên chép tranh của các danh họa.
Hai vợ chồng ở trong một phòng tập thể trên dưới 6m² gần bến Ninh Kiều. Thời gian này, tuy nghèo nhưng chúng tôi rất hạnh phúc, chồng làm báo, vợ họa sĩ còn gì lý tưởng hơn. Vậy mà, tôi đã phá hủy tất cả vì sự trượt dốc của mình.
Tôi nghiện ma túy sau nhiều lần dùng “thử” khi xâm nhập thực tế viết phóng sự điều tra. Đã từng là một người lính, tôi tự hứa sẽ không gục ngã, sẽ chiến thắng ma túy. Số lượng Báo Hậu Giang khi ấy ngày càng tăng, tỷ lệ nghịch với sự bệ rạc của chính mình, tôi viết đơn xin nghỉ việc vì tự thấy mình không thể tiếp tục làm ảnh hưởng cơ quan. Biết bao nhiêu giọt nước mắt của vợ tôi nhỏ xuống và cả hình ảnh đứa con trai còn đỏ hỏn của mình cũng không níu kéo tôi lại được, tôi dứt áo ra đi.
Những giải thưởng mà tác giả đã đạt được.
Từ một người được gia đình, xã hội coi trọng, tôi trở thành một thứ rác rưởi ở tận đáy xã hội. Hai lần vào trại cai nghiện, trong mắt mọi người chung quanh, tôi chỉ là một thứ vứt đi, chẳng đáng ghé mắt tới, dù sống hay chết!
Tôi thả cuộc đời mình trôi dài qua các gầm cầu, bến xe, qua các cơn mê sảng tăm tối nhiều năm trời. Đôi lúc, tỉnh trí tôi cũng tự hỏi: mình sẽ làm gì đây, khi trước mắt chỉ là một màu đen u ám và tương lai là con số không to tướng?! Cho đến một ngày, tôi thật sự cảm nhận đầy đủ mọi ngóc ngách cái câu “thân tàn ma dại” mà người ta hay dùng khi nói đến mấy thằng nghiện. Quần áo tả tơi hôi hám, tay chân lở loét vì những vết chích ra ngoài thịt, thân thể suy nhược do thiếu ăn, thiếu thuốc.
Nhiều đêm nằm ở vỉa hè, tôi đã thấy rõ ngày mai của mình. Chính trong những lúc tuyệt vọng tột cùng đó, tôi nhớ về mái lá nghèo nàn của ba má mình ở lộ tẻ Ba Xe. Thôi thì về đó, nếu chết ít ra cũng có giọt nước mắt của người thân. Lúc này vợ tôi đã được nhận vào làm họa sĩ trình bày Báo Hậu Giang (trước khi tôi nghỉ việc), cô lầm lũi làm việc nuôi con.
Đã nhiều năm trời từ ngày hồi hương nhưng gia đình tôi vẫn vậy, cái nghèo chỉ thay đổi sự biểu hiện chứ chưa bao giờ rời khỏi mái nhà này. Hàng ngày má tôi nấu xôi, làm bánh bán cho mấy đứa học trò, mấy bà con loanh quanh trong xóm. Ngày đầu tiên tôi trở về nhà, má tôi đã khóc rất nhiều, bà nói con đừng đi đâu nữa, có chết cũng chết ở quê mình, không thành hồn ma vất vưởng. Ba tôi không nói gì nhưng ông buồn lắm, đã hơn 60 tuổi rồi, lại phải chứng kiến sự hư hỏng của con mình, thử hỏi ai mà không buồn cho được.
Vậy rồi cũng qua đi những cơn vật vã vì thiếu thuốc. Nhà đâu có tiền để mua các loại thuốc tây, thuốc tàu, ba tôi mày mò ra vườn bứt cây cỏ mực cho tôi đắp các vết lở loét, má tôi sắc thuốc nam cho tôi uống khi mất ngủ. Có lần má tôi đã ngồi bóp tay bóp chân cho tôi gần như suốt đêm; giọt nước mắt nóng hổi của bà nhỏ xuống lưng tôi bỏng rát như những giọt cường toan nhỏ lên da thịt, nhưng cũng chính điều đó đã giúp tôi thêm sức mạnh vượt qua được những con dòi, con bọ bòn rút trong xương khi vật vã.
Buôn bán chẳng mấy đồng lời, một phần mua gạo, phần còn lại bà luôn mua cho tôi những thức ăn ngon ngon một chút. Bà còn sợ tôi buồn, nên đi đâu cũng tìm xin mấy tờ báo cũ mang về cho tôi đọc. Cả một thời gian dài, khi cơ thể đã hoàn toàn thoát khỏi sự lệ thuộc của ma túy. Khi mà đầu óc đã hoàn toàn tỉnh táo, cái câu hỏi: mình sẽ làm gì, luôn làm tôi trăn trở! Sự thật mà tôi phải đối mặt ấy càng nặng nề hơn khi hàng ngày chứng kiến cảnh ba má tôi đã già lắm rồi vẫn phải thức khuya dậy sớm lo cơm cháo cho đứa con không ra gì là tôi. Về phần đứa con trai của tôi lúc này đã vào học mẫu giáo, nỗi nhớ vợ con cứ đè nặng trong tim nhưng tôi không dám về thăm. Tôi sợ!
Suy nghĩ đến nát cả óc vẫn không tìm ra phương kế. Buôn bán thì không có tiền làm vốn, nghề nghiệp lại chẳng đâu ra đâu, có xin làm mướn cũng chẳng ai dám nhận một thằng đã “từng nghiện”. Trong tháng ngày bế tắc ấy, tôi may mắn đọc được một số bài thơ, đoạn văn rất hay trên mấy tờ báo đủ loại mà má tôi mang về. Tại sao mình không làm thơ, viết văn, những bộ môn mà tôi rất yêu thích từ khi còn đi học?
Tôi viết đầy những quyển vở học trò, những quyển sổ mà tôi có. Đó là sự hối hận cho cả một thời hoang phí tuổi trẻ; đó là nỗi nhớ, niềm thương; là máu và nước mắt. Một thời gian nữa trôi qua, khi thấy “vốn liếng” thơ văn của mình đã kha khá, tôi có ý định gửi nó đến các tờ báo. Nhưng gửi bằng cách nào đây? Chuyện này bây giờ thì khá đơn giản chỉ nhấp chuột một cái là xong, vậy mà hoàn cảnh tôi lúc ấy không làm sao xoay trở được.
Từ chỗ tôi ở ra bưu điện xã hơn 7km, nhà không có xe đạp, đi xe ôm thì không có tiền. Hơn nữa, ba má tôi cũng không muốn tôi ra khỏi nhà trong lúc này. Cứ tưởng sẽ bỏ dở ý định, không ngờ ba tôi bảo cứ bỏ những gì muốn gửi vào bao thư (mua dưới mấy chiếc ghe hàng ngược xuôi rất nhiều mỗi ngày trên các kinh rạch miền Tây), ghi địa chỉ đàng hoàng, ông sẽ mang đi gửi cho. Vậy rồi, cứ năm bảy bữa, nửa tháng, suốt một thời gian dài, ba tôi đã đi bộ dưới trời nắng chang chang, dưới những cơn mưa dầm rét buốt hay xắn quần lội bì bõm trong nước ngập mùa lũ, đoạn đường đi về hơn 15km để mang những gì tôi viết ra, đến được nơi nó cần đến. Những gì mà có lẽ suốt đời ông không bao giờ đọc…
Bài thơ đầu tiên của tôi được đăng trên Báo Bình Dương. Tôi vui lắm! Rồi các tờ báo văn nghệ địa phương, báo tỉnh lần lượt đăng những sáng tác của tôi. 20.000 đồng tiền nhuận bút, là số tiền lần đầu tôi có được do chính mình làm ra, sau những tháng ngày đen tối. Tôi còn mày mò viết nhạc, sáng tác các bài ca vọng cổ. Ở lĩnh vực nào tôi cũng ít nhiều có những thành công nhất định.
Từ những câu thơ, đoạn văn, bài ca ấy, tôi có điều kiện gặp gỡ những người làm văn nghệ, được kết nạp vào Hội Văn học nghệ thuật địa phương; được dự các lớp tập huấn, các trại sáng tác; được nhận các giải thưởng âm nhạc, văn học, sân khấu cao có, thấp có; từ cấp địa phương đến khu vực, toàn quốc.
***
Thiếu tá Huỳnh Minh Kha, Đội trưởng Đội Cảnh sát Quản lý hành chánh Công an quận Ninh Kiều xem xong hồ sơ xin nhập hộ khẩu của tôi buột miệng: “Đây là trường hợp độc nhất vô nhị mà tôi gặp từ trước tới nay!”. Quả thật xem lại hồ sơ của chính mình tôi cũng choáng váng, cuộc sống đã đưa đẩy tôi vào một mớ bòng bong rối nùi. Thứ giấy tờ duy nhất mang tên cúng cơm của tôi là tờ giấy khai sinh mà ba tôi còn giữ; tất cả các loại giấy tờ khác theo tôi hơn 30 năm nay từ giấy quyết định xuất ngũ, đăng ký kết hôn, khai sinh của con, giấy chứng nhận nghề nghiệp như thẻ nhà văn, nhà báo đều mang tên em trai tôi, chưa hết cả năm sinh cũng trớt quớt.
Sau khi thoát khỏi sự lệ thuộc của ma túy, tôi đã mang tên em trai mình đi bên lề cuộc sống dù dưới mắt mọi người tôi là một người giỏi giang, được bạn bè trong giới quý mến, tôn trọng.
Chủ trương cải cách hành chính của nhà nước thật sự giúp người dân rất nhiều khi đến các cơ quan công quyền nhưng điều tôi muốn nói ở đây những người mặc sắc phục công an mà tôi tiếp xúc ấy đã đối xử với tôi chân tình như với một người bạn hay chính xác hơn là một người thân.
Phải mất gần 5 tháng trời (cùng sự động viên, tháp tùng của bà xã) và sau bao nhiêu thủ tục, xác minh tới lui tôi mới lấy lại được cái tên cha sinh mẹ đẻ của mình. Bước thứ hai được nhập hộ khẩu vào chính căn nhà mà mình đã sống biết bao nhiêu năm trời, rồi đi làm chứng minh nhân dân. Sau đó là điều chỉnh giấy đăng ký kết hôn và khai sinh cho con mình lúc này đã là cậu sinh viên Đại học Cần Thơ chuẩn bị ra trường. Điều đặc biệt hơn trong chứng minh nhân dân ghi cả hai tên: một của tôi, một của em trai mà tôi đã dùng hơn 30 năm, từ nay sẽ đồng hành cùng tôi mãi mãi.
Nếu nói cuộc đời mỗi con người đều phải đi theo con đường định sẵn thì đúng là số phận đã “thử thách” tôi không ít lần. Bây giờ khi mọi chuyện đã êm xuôi, đã đường hoàng là một công dân trong xã hội như bao nhiêu người khác, tôi chợt “ngộ” ra một điều cứ sống cho tử tế thì mọi cái tốt đẹp sẽ đến với mình. Bây giờ kể lại chi tiết mọi chuyện sẽ dài lắm, sẽ vượt khuôn khổ của một bài bút ký. Chỉ biết rằng gia đình tôi đã sum họp sau biết bao nhiêu là sóng gió, nay tôi đã có nhà cửa đàng hoàng và đủ điều kiện để theo đuổi con đường văn nghệ như cái nghiệp mà số phận đưa đẩy đến cho mình.
Tôi sẽ không nói cảm ơn đối với ba má mình, với người vợ yêu thương đã hy sinh rất nhiều cho tôi bằng lời, mà sẽ thể hiện bằng hành động là cố sống cho tử tế nhất, đàng hoàng nhất từ nay đến cuối cuộc đời.
NGUYỄN TRUNG NGUYÊN
>> Hành trình kỳ lạ - Duyên nghiệp