Ký ức một thời bom đạn

Một thời “sơ tán”!
Ký ức một thời bom đạn

Thấm thoắt đã 35 năm sau chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”. Với nhiều người, nó đã trở thành dĩ vãng, song với những người sống ở thời đạn bom khốc liệt ấy thì không thể nào quên!

Một thời “sơ tán”!

Cái thuật ngữ này đối với thế hệ 8X, 9X thật xa lạ. Nhưng đối với những ai đã từng sinh ra lớn lên ở bất kỳ thành phố, thị xã thuộc miền Bắc thời chống Mỹ thì đó lại là câu nói cửa miệng. Thậm chí từ “sơ tán” nhiều khi còn được coi như một từ để chỉ những người thành thị tạm khăn gói về các làng mạc, đồng quê để tránh bom đạn. Từ nơi đây có biết bao kỷ niệm đẹp thời thơ ấu của lũ trẻ thành thị gắn với tấm lòng nhân hậu của bà con nông dân đùm bọc người thành phố về đây tá túc.

Ký ức một thời bom đạn ảnh 1

Tên lửa và cao xạ bảo vệ Hà Nội trong trận “Điện Biên Phủ trên không” 12-1972. Ảnh: TTXVN

Cũng từ những nơi như thế bọn trẻ con thành phố chúng tôi học được biết bao điều từ cái văn minh lúa nước còn ẩn chứa nơi làng quê mộc mạc, mà trước đó thói quen thị thành và nếp sông Âu hóa đã làm cho quên lãng.

Chúng tôi học được: từ cách chào hỏi người lớn khi ra đường dù là người xa lạ, đến việc đi bắt cá, thả diều. Từ việc biết phân biệt đâu là cây tre với cây trúc đến phụ việc đồng áng như mót lúa, mót khoai.

Nhưng một phần không thể thiếu trong thời bom đạn, là chúng tôi vẫn đảm bảo việc cắp sách đến trường. Trên đầu mỗi đứa trẻ khi tới trường là chiếc mũ rơm tự đan lấy, sau lưng nặng trĩu một nùn rơm cũng tự bện. Lớp học ẩn trong lũy tre làng được bao bọc bởi những bức tường lũy bằng đất cao sát mái.

Khoảng cách giữa chúng là đường giao thông hào dẫn ra hầm trú ẩn hình chữ A cũng được đắp bằng đất. Tất cả những công trình “kiến trúc” tuy thô sơ nhưng hiệu quả đó đều do bàn tay thầy trò chúng tôi dựng lên. Mỗi khi có báo động tiếng máy bay Mỹ bắt đầu gầm rú là thầy trò lại nhanh chóng rút xuống hầm theo đường giao thông hào và không quên đội mũ rơm để tránh mảnh bom, đạn.

Cái thời học tập và sơ tán để “góp phần đánh Mỹ” đó, cũng đã nâng cánh cho biết bao tài năng của đất nước, để khi cần đi thi thố với bạn bè năm châu chúng ta không hề thua kém. Thế hệ chúng tôi tự hào vì có Đặng Thái Sơn luyện ngón đàn dưới hầm nơi sơ tán để rồi vút lên thăng hoa giành giải cao nhất cuộc thi Piano quốc tế tại Ba Lan. Hoặc như Phan Vũ Diễm Hằng, Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Thị Thiều Hoa lần đầu tham gia thi toán quốc tế cũng đã mang vinh quang về cho Tổ quốc…

Và 12 ngày đêm khốc liệt!

12 ngày đêm máy bay Mỹ tấn công Hà Nội và Hải Phòng chỉ là đỉnh điểm của cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ vào miền Bắc nước ta. Bởi trước đó, ngày 16-4-1972, Mỹ bất ngờ tấn công dữ dội ở Hải Phòng và một số nơi khác sau một thời gian được gọi là “đình chiến”.

Trước đó nữa, ngày 5-8-1965, sau khi dựng lên “sự kiện Vịnh Bắc bộ”, Mỹ đã chính thức mở cuộc ném bom đánh phá miền Bắc, tập trung vào các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh…, đưa chiến tranh lan rộng ra khỏi vĩ tuyến 17.

Ở nhiều khu đô thị, loa phát thanh cho người dân tập làm quen với hiệu lệnh kẻng dồn dập liên hồi là báo động có máy bay B52 phải xuống hầm trú ẩn ngay. Lần này thì mọi người đã cảnh giác. Nhiều nhà đã sơ tán triệt để hơn. Chiều tối, trên đường phố hầu như không một bóng người. Lúc đó đang mùa đông, bầu trời càng trở nên u ám.

Sự im lặng báo hiệu một trận chiến căng thẳng sắp diễn ra. Mỹ không tấn công vào ban ngày mà chúng đến vào ban đêm. Chiến thuật của Mỹ có lẽ muốn mọi người phải rệu rã về tinh thần. Và ý đồ đó không phải vô dụng đối với lũ trẻ chúng tôi.

Khi tiếng kẻng hối hả vang lên là tiếng gừ gừ nghe đều đều như tiếng xay lúa, càng lúc càng to dần. Rồi mặt đất bắt đầu rung lên liên hồi và kéo theo những tiếng nổ dền. Đó chính là sự xuất hiện của máy bay B52. Đêm nào cũng vậy, con “ngáo ộp” cứ lừ lừ đến và gây tội ác.

Xen giữa những đợt ném bom đó cứ khoảng 15, 20 phút chúng lại cho 1 hoặc 2 chiếc máy bay F111 - loại “cánh cụp, cánh xòe” - bay rất thấp, tiếng gầm rú man rợ. Chỉ một chiếc như thế thôi cũng đủ cho cả thành phố phải thức giấc và lực lượng phòng không phải đánh trả. Chúng cứ làm thế mãi, nên mọi người ngủ luôn dưới hầm.

Đến sáng hôm sau, tin mà mọi người muốn biết trước hết là: Chúng thả bom nơi nào? Thiệt hại về người và của ra sao? Và điều quan trọng hơn nữa là có bao nhiêu B52 bị bắn rơi và bao nhiêu phi công Mỹ bị bắt. Chúng tôi vui sướng hả hê vì chúng ta đã đứng vững và bắt chúng phải đền tội nhưng cũng đau xót vì bao nhiêu đồng loại vô tội bị tàn sát, nhà cửa bị san bằng.

Đỉnh điểm của tội ác mà B52 gieo rắc là khu phố Khâm Thiên và Bệnh viện Bạch Mai ở Hà Nội, khu An dưỡng Hải Phòng. Những nơi này hầu như bị hủy diệt hoàn toàn. Tôi còn nhớ, trong số những người bị thiệt mạng đó có cô bé tên Hà, học rất giỏi và xinh xắn.

Cuốn nhật ký mà cô để lại, sau đó được công bố trên mặt báo. Là những đứa trẻ cùng trang lứa khi đọc những dòng nhật ký của cô, chúng tôi không cầm được nước mắt vì xúc động trước ước mơ cháy bỏng nhưng cũng rất lãng mạn của một cô gái Hà Nội: muốn được ra mặt trận làm cô giải phóng quân.

“Muốn xin chiếc mũ tai bèo
Làm cô giải phóng, được trèo Trường Sơn”.

Nếu còn sống và được ra trận, biết đâu cô cũng sẽ là một Đặng Thùy Trâm…

Cuối cùng thì cuộc chiến đã kết thúc sau 12 ngày đêm (từ 18 đến 30-12). Chiến thắng đã thuộc về chúng ta. Nhưng biết bao máu xương, biết bao người con của dân tộc quả cảm này đã hy sinh mới có được. Hãy biết trân trọng sự hy sinh mất mát hôm qua để giành chiến thắng, và hôm nay hãy biết nâng niu hòa bình!

Tuấn Vũ

Tin cùng chuyên mục