Lời nhắn nhủ chân tình

"Kinh nghiệm lớn nhất của tôi là các bạn đừng làm những thứ mà người ta muốn. Nghĩa là đừng theo thị hiếu mà phải tạo ra thị hiếu. Hãy làm những điều thôi thúc bạn. Nếu một đạo diễn không đặt mình vào bộ phim anh ta làm, không hướng được khán giả theo với câu chuyện và vấn đề anh ta đưa ra thì bộ phim chắc chắn thất bại! Hãy làm phim bằng cảm xúc mãnh liệt nhất và những suy nghĩ sâu sắc nhất của bạn”. 

Một lời dạy cách làm phim giáo điều, cứng ngắc của thời bao cấp chăng? Không, đó là lời khuyên của Phillip Noyce đối với các đạo diễn trẻ Việt Nam. Sau 8 năm, kể từ ngày ông sang nước ta thực hiện bộ phim Người Mỹ trầm lặng, nay ông ngồi ghế chánh chủ khảo mảng phim truyện tại Liên hoan phim quốc tế Việt Nam. Không rõ, Phillip Noyce xem được bao nhiêu bộ phim truyện Việt Nam, có bao cuộc trò chuyện với các đồng nghiệp nước ta, nhưng có được lời khuyên trên, rõ ràng ông chẩn đoán chính xác căn bệnh của điện ảnh ở xứ mình.

Lời khuyên của Phillip Noyce thật ra đã từng là “bài học nhập môn” đối với các học viên khóa đầu tiên của điện ảnh Việt Nam, sau này trở thành những tên tuổi như Huy Thành, Hải Ninh, Nguyễn Văn Thông, Trần Vũ, Bùi Đình Hạc, Hồng Sến… Những bộ phim truyện Việt Nam ra đời vào những năm 1960, 1970, 1980 dù có mắc căn bệnh sơ lược, giản đơn, yếu tố tuyên truyền lấn át yếu tố nghệ thuật…, nhưng không thể chối cãi chúng đều được làm bởi tâm huyết, sự trăn trở và những nghĩ suy sâu sắc của các tác giả.

Tuyệt nhiên người làm phim không theo đuôi, đón lõng sự yêu, ghét của số đông, không chịu áp lực của đồng lời lãi. Thâm nhập vào đời sống, hiểu rõ buồn vui của đồng bào mình, nhưng người làm phim đều có ý thức sâu sắc rằng, mỗi bộ phim làm ra không chỉ phản ánh cuộc sống mà còn phải nâng lên tầm khái quát để những điều họ muốn nói hướng đến những khát vọng, những giá trị thẩm mỹ cao hơn. Chính vì thế, dù hay hoặc chưa hay, những bộ phim của lớp điện ảnh tiền bối đều để lại dấu ấn, phong cách riêng rất rõ của từng tác giả. Những bộ phim của họ không chỉ trở thành tác phẩm kinh điển của nền điện ảnh Việt Nam mà còn được bạn bè thế giới đánh giá cao bởi dung lượng xã hội, tầm cao tư tưởng, cách nhìn và sự cảm thụ riêng so với phim ảnh của Thái Lan, Indonesia, Philippines, Singapore…

Bước qua cơ chế thị trường, điều cốt tử như đạo diễn Phillip Noyce khuyên nhủ bỗng bị xếp xó. Người ta hô hoán lên phim phải có người xem, phim ra rạp nhất định phải có doanh thu… Đành rằng phải trả lại thuộc tính hàng hóa cho sản phẩm phim ảnh, nhưng từ đây biến số lượng vé bán được, biến việc tìm kiếm doanh thu thành thước đo duy nhất mọi giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ của sản phẩm điện ảnh quả là đã phạm một sai lầm nghiêm trọng.

Sau thời kỳ “phim mì ăn liền”, đến thời kỳ phim truyền hình áp đảo phim điện ảnh, chúng ta càng lún sâu hơn nữa vào mê hồn trận của những lầm lạc này. Sự tính toán, trù liệu sở thích của người xem bây giờ chỉ bó gọn ở tính thất thường, đỏng đảnh “mau đói, chóng no” của giới trẻ, bỏ qua sự thẩm định và nhu cầu thưởng ngoạn của nhiều tầng lớp xã hội khác. Tiến thêm bước nữa, sự đo đếm chất lượng phim ảnh bó hẹp vào yêu cầu của “nhà đài” (tức đài truyền hình) khi công chiếu có thu được quảng cáo hay không, có bỏ được nhiều hay ít phần trăm vào túi không?

Kinh doanh bằng nghề sản xuất phim ảnh là chuyện thường tình. Nhưng nếu việc làm phim nói riêng, sinh hoạt điện ảnh nói chung, hoàn toàn bị giới làm ăn thao túng, áp đặt; còn những người nghệ sĩ điện ảnh tâm huyết, tài năng đành nhượng bộ, coi bộ phim, vai diễn chỉ là phương tiện kiếm tiền để độ nhật qua ngày thì đấy là dấu hiệu đích thực của một nền điện ảnh đã xuống cấp nghiêm trọng

TÔ HOÀNG

Tin cùng chuyên mục